THẦN DƯỢC CỨU MỆNH
( Bài đăng trên báo Long An - thứ năm từ 21-4 đến 24-4 1997,
năm thứ 34, số 29/97 (1509)
LTS: Ông Nguyễn An Định, cộng tác viên của Báo Long An, hiện nghỉ hưu tại TP.HCM. Với tấm lòng thiết tha với vốn quý y học cổ truyền, lại thêm mối cảm tình với nghề y trong gia tộc (ông là trưởng nam của nhà ái quốc Nguyễn An Ninh), từng có lúc hành nghề y dược. Vừa qua ông có bài viết sau đây; chúng tôi xin giới thiệu, như một tư liệu để bạn đọc tham khảo. Tác giả và tòa soạn báo rất mong nhận được ý kiến đánh giá của các nhà chuyên môn về nội dung y dược học nêu trong bài viết.
THẦN DƯỢC CỨU MỆNH 1
Có quyển sách thuốc Nam, in đầu thế kỷ 20 mang tên "Thần dược cứu mệnh", giới thiệu một bài thuốc thần "cứu người sau bốn khắc". Trong quyển "Hai trăm bài thuốc quý" của ông Lê Văn Tĩnh, Sa Đéc, in khoảng năm 1940, cũng có một bài giống y như vậy, đề là "chủ trị lâm ban, ôn dịch và các bệnh nan y, công hiệu như thần, bệnh lui sau 60 phút".
Quyển "Thần dược cứu mệnh" mở đầu bằng câu "Con người dẫm lên thuốc thần mà không biết, nên vẫn chết". Vị thuốc thần đó chính là vị thuốc có tên "Địa long" - con rồng trong đất. Ở Trung Quốc và Việt Nam, vị Địa long có mặt trong nhiều thang thuốc trị bệnh hiểm nghèo hoặc để cấp cứu người sắp chết. Nhân dân Hàn Quốc có thói quen ăn cháo Địa long trứơc khi ngủ, để tẩm bổ và để trị bá bệnh. Đêm đêm, cháo Địa long có bán tại các thị trấn và ngay cả ở thủ đô. Gần đây trong thời gian Thế vận hội Olempic Seoul, vì ngại người nước ngoài không hiểu vị thuốc quý mà coi thường nhân dân Nam Hàn, nên Chính phủ đã cấm bán cháo Đia long trong thời gian Thế vận hội. Vậy "Địa long" là gì? Nó chính là con trùn đất, loại có màu sẫm đen, ánh xanh ở cổ, to bằng đầu đũa hoặc to hơn, khi đào trúng nó, nó không giãy giụa, co thành một nùi tròn nằm im.
"Thần dược cứu mệnh" phân tích tính dược của trùn đất, cho rằng nó có khả năng: làm dai mạch máu và dây thần kinh, nối liền các chỗ dây thần kinh bị dứt, các mạch mạu bị nứt rách, hồi phục sự sống cho các tế bào đã bị hoại tử, tách ra và đào thải các tế bào đã chết thối, hết phương phục hồi, vực dậy vô cùng nhanh chóng sức chống trả bệnh tật của con người ( ngày nay gọi là vực dậy sức miễn dịch của cơ thể). Cho nên, chỉ sau sáu mươi phút bệnh phải lui, mọi hiện tượng lâm sàng đều biến mất. Do đó Địa long được dùng và công hiệu rất nhanh chóng trong các trường hợp: cửu khiếu xuất huyết, não bộ xuất huyết, ngũ tạng, lục phủ xuất huyết, phù thận, phù gan, phù toàn thân, phù tim, đột ngột phát điên không rõ nguyên do có sốt hoặc không có sốt, bí đại tiểu tiện, bí trung tiện, bụng báng trướng nước, "mắc đằng dưới" (bạch đới nặng, ngày đêm đáy quần ướt sũng hôi hám, người ốm tong, xanh xao...)
Ở hai quyển sách, hai bài thuốc giống nhau, có một nét đặc biệt nổi bật "bênh lui sáu mươi phút sau khi uống thuốc", mà lại chuyên trị những ca rất khó trị. Ví vậy nói "thần dược cứu mệnh" thật không ngoa chút nào.
Lúc nhỏ tôi rất mê ngành y dược. Các sách chữ Pháp dành cho các y bác sĩ nghiên cứu kỹ về nhi khoa, sản khoa, đa khoa, giải phẫu... đọc rất khó hiểu và rất đắt tiền, tôi cũng ráng mua để nghiên cứu. Hai quyển sách thuốc : "thần dược cứu mệnh" và "200 bài thuốc quý" tôi coi như vàng ngọc. Đi kháng chiến, hai quyển đó nằm dưới đáy ba lô tôi, theo tôi suốt chín năm, giúp tôi trị bệnh cứu người. Chỉ riêng năm 1953 và nửa đầu năm 1954, tôi đã cứu gần trăm người, coi như giật lại từ tay thần chết.
Trong cuộc giành giật đó, có lần tôi đã chạm trán cả với một vị danh y, mà trước đó các nhà điền chủ lớn ở Cần Thơ, Rạch Giá, Sóc Trăng, Bạc Liêu thường đưa xe hơi hoặc ghe máy đến tận nhà để rước ông. Năm đó ở vùng Giáp bốn tỉnh này có một đợt dịch bệnh, phần lớn là các cháu nhỏ từ 9 -10 tuổi đến 15 -17 tuổi, đa số là gái, các cháu trai và người lớn ít bị hơn. Hiện tượng là xuất huyết nội tạng, xuất huyết cửu khiếu, xuất huyết dưới da (nổi vệt đỏ bầm tím, xanh đen khắp người) hôn mê bất tỉnh nằm im như xác chết suốt bảy ngày, có khi lâu hơn, mạch đã lạc không bắt được, hơi thở rật yếu khó nhận thấy, da tái xanh, tay chân lạnh ngắt (nhưng vẫn còn mềm dịu, nếu cứng đơ thì đã bị đem chôn rồi)
Lần đó cháu gái hôn mê đã 8 ngày, mình đầy các vệt tím. Gia đình đã rước được vị danh y nổi tiếng nói trên, nhưng ông đến xong lại từ chối không trị bệnh cho cháu, chỉ vì trong số 30-40 vệt bầm đen trên da cháu, có một vệt đen kịt to bằng đầu ngón tay, nằm đúng giữa hai đầu lông mày. Ông cho đó là điềm báo không thể cứu sống. Sợ mất uy tín thầy, nên ông không hốt thuốc.
Tình cờ tôi đến, thấy má cháu đang quỳ lạy van xin ông cứu cháu, mà ông một mực chối từ. Nghe mạch tại tim, thấy còn tiếng thoi thóp rất yếu, tôi nói:
- Thưa thầy, thầy quyết bỏ, thì con xin phép thầy cho con cứu cháu.
- Em mà cứu được hả? Có thấy vệt đen ngay huyệt Tam tinh không mà em liều mạng vậy? Tôi hỏi em, sau khi em đổ thuốc thì bao lâu cháu tỉnh lại? Em nói được, tôi sẽ để cho em đổ thuốc.
- Thưa thầy bài thuốc của con, cháu uống xong chỉ độ 63-65 phút sau cháu sẽ mở mắt.
Thầy trợn tròn mắt, đỏ mặt tía tai, lườm tôi rồi quát:
- Chủ nhà đâu, đem cho tôi cái đồng hồ bàn.
Ông dằn mạnh đồng hồ lên bàn, nói:
- Được rồi! Có đồng hồ đó. Tôi ở lại coi cháu nhỏ tỉnh dậy.
Có kinh nghiệm cả trăm lần rồi, tôi rất tin ở bài thuốc. Tôi đi nấu rồi cạy răng đổ cho cháu uống. Quả nhiên tới phút 63 cháu mở mắt, đến phút thư 65 cháu đòi đỡ ngồi dậy, đòi uống nước ăn cháo, đòi cho đi tiêu tiểu. Tiếng cháu rất yếu, hai mắt cháu toàn tròng trắng, không thấy tí tròng đen nào. Nhưng tay chân cháu đã ấm, da hết tái xanh. Rõ ràng cháu đã sống lại.
Ông thầy thuốc với hai tay lên đầu, lột khăn đóng xuống chắp tay trước ngực nói:
- Lúc nãy em kêu tôi bằng thầy, bây giờ tôi phải lạy em ba lạy mà kêu em bằng thầy. Xin thầy thông cảm cho, vì thầy trẻ quá, nhỏ hơn con tôi nhiều, do đó tôi không quỳ lạy sợ tổn thọ cho thầy. Tôi chỉ xin xá đủ ba xá thay cho ba lạy.
Nói xong ông trịnh trọng xá tôi ba xá, đầu cúi sâu thật nghiêm túc. Sau đó ông xin tôi bài thuốc.
Năm đó, ngoài các hiện tượng hôn mê sâu nhiều ngày, xuật huyết dưới da, xuất huyết cửu khiếu, xuất huyết nội tạng, xuất huyết não, còn có nhiều ca bệnh khác. Bà nọ phát điên đã 4-5 ngày. Phải vất vả lắm mới đổ được thuốc. Cũng hơn 60 phút bà khỏi hẳn. Ông kia hơn 90 tuổi, cảm gió nằm im sùi bọt mép, mắt trật thị, tay chân lạnh ngắt. Lấy móc tai đâm dưới móng mười ngón tay mút không ra tí máu, máu đã đông. Khi tôi cạy răng đổ thuốc, còn có người nhà nói sau lưng tôi:
- Thuốc hay thì trị được bệnh, chứ cãi làm sao được mệnh của trời. Ông đã trên chín mươi tuổi còn gì. Cứu sao được mà cứu?
Vậy mà sau khi đổ thuốc 65 phút, ông vẫn sống, cãi cả mệnh trời thật!
THẦN DƯỢC CỨU MỆNH 2
Cuối năm 1969, ở Hà Nội có đợt dịch bệnh gọi là sốt xuất huyết, được xác định xuất hiện lần đầu tiên ở nước ta. Các cháu nhỏ chết la liệt, tại bệnh viện lớn có ngày 15-17 cháu chết. Nghe nói có dịch bệnh gây chết tràn lan, tôi đến các bệnh viện xem. Thấy các dạng bệnh giống y như tôi đã từng gặp, tôi viết ngay một bài, nói rõ về bệnh và phổ biến bài thuốc "Thần dược cứu mệnh", gởi lên Bộ trưởng Bộ Y tế lúc bấy giờ là bác sĩ Nguyễn Văn Hưởng. Bác gởi phổ biến đi các tỉnh, đồng thời gởi đăng ngay trên báo "Hà Nội mới". Trong bài viết của tôi có câu:
"Đề nghị dùng thuốc này cho các ca bệnh nặng nhất. Bảo đảm 100% sẽ không có tử vong". Bác sĩ Hưởng đã xóa bỏ đoạn "... Bảo đảm 100%...". Đọc báo thấy mất đoạn đó, tôi chạy ngay đến nhà bác Bộ trưởng. Tôi nói:
- Thưa bác, bác bỏ mất đoạn quan trọng nhất trong bài của cháu. Vì cháu nghĩ, vị chủ của bài thuốc nầy là con trùn, nên nó dễ gây ngại dùng. Bắt con trùn còn gớm, làm thuốc càng ớn hơn, vì vậy để câu đó, người ta tin chắc chắn nó sẽ cứu sống người bệnh, do đó người ta ráng không gớm, ráng bằng mọi giá làm thuốc để cứu bệnh nhân.
Bác Hưởng nói:
- Giả dụ người bệnh đến giờ phải chết, 5-10 phút nữa sẽ chết, mà thuốc của cháu lại cần đến 60 phút mới cứu sống. Vậy làm sao bảo đảm 100% được? Thận trọng vẫn hơn cháu à. Trong ngành y không nên nói câu đó.
- Thưa bác, nhưng kinh nghiệm thực tế của cháu đã cho thấy rõ, thuốc có uống khỏi cổ là đã chắc sẽ sống rồi.
Bác Hưởng không bằng lòng nên nói:
- Tôi nhắc lại, ngành y không cho phép nói bảo đảm cứu sống 100%.
Bác cháu tôi tranh luận như vậy. Nhưng vài tháng sau, đến Hội nghị tổng kết dịch sốt xuất huyết toàn miền Bắc, do Sở Y tế Hà Nội tổ chức, tôi nhận được thư mời của đồng chí Giám đốc Sở Y tế Hà Nội. Trong giấy mời đồng chí viết:
- Trong cuộc chống dịch sốt xuất huyết vừa qua, Bộ có sử dụng bốn bài thuốc Nam do nhân dân đóng góp. Nói chung, thuốc Nam trị bệnh này đạt hiệu quả rõ ràng và nhanh chóng hơn Tây y. Tuy nhiên, trong các bệnh nhân dùng ba bài thuốc kia, vẫn có những ca tử vong. Duy chỉ có bài "trùn đất" của đồng chí là cứu sống 100%, không có ca tử vong nào. Mặc dù bài thuốc đó đã dùng cho tất cả các bệnh nhân nặng nhất. Vì vậy, mời đồng chí dự hội nghị tổng kết. Đặc biệt mời đồng chí báo cáo với hội nghị một số vấn đề mà chúng tôi muốn biết. Ví dụ: tại sao đồng chí biết dùng năng lượng của dòng điện 12 von để gọi thức thần kinh trung ương của bệnh nhân hôn mê sâu. Mà lại nói được: sau khi nạp điện lần thứ năm thì bệnh nhân tỉnh dậy?
- Còn một số vấn đề khác, chúng tôi cũng xin đồng chí cho biết rõ hơn. Ví dụ vấn đề 63-65 phút, có trường hợp nào khác đi, kéo dài hơn không? Ngoài bệnh sốt xuất huyết, thuốc còn trị được các bệnh nào khác?
Cuộc họp đó có khoảng hơn 200 người đến dự, gồm Hội đồng Kỹ thuật của Bộ, các giám đốc bệnh viện quận và huyện ngoại thành, các lương y và sư sãi tham gia trị bệnh cứu người. Báo cáo của tôi trả lời các câu hỏi của đồng chí giám đốc sở cùng nhiều câu hỏi khác, đã được hội nghị vỗ tay hoan hô hồi lâu.
Sau hôi nghị đó, bác Hưởng mời tôi tới nhà bác và gợi ý:
- Tôi muốn đề nghị với Bộ Văn hóa biệt phái cháu về Viện Đông y trong thời gian 3-5 năm. Ỡ Viện, tôi sẽ cử cháu phụ trách một tổ nghiên cứu gồm nhiều phó tiến sĩ y dược. Cháu cùng các vị đó sẽ bào chế, biến bài thuốc của cháu thành thuốc chai để uống, sau đó tiến tới biến thuốc thành dạng nước trong cho vào ampoule để chích. Chế được thuốc tiêm, ta sẽ đưa đi điều trị cho bảy - tám chục bệnh nhân. Nếu thời gian chấm dứt các hiện tượng làm sáng tỏ vấn đề là 63-65 phút như thuốc thang, coi như ta thành công. Chừng đó bác sẽ cho sản xuất đại trà, bán rộng ra nước ngoài. Bác sẽ để tên thuốc là AV, ngầm hiểu là antivirus. Vì hiện nay trên thế giới người ta cho là "chưa có thuốc đặc hiệu trị siêu vi trùng", cho nên ta chưa dám đề rõ nguyên chữ antivirus. Khi nào thiên hạ dùng nhiều và xác định thuốc này diệt siêu vi trùng rất có kết quả, lúc đó tự họ sẽ cho thuốc của ta là antivirus.
Hồi đó tôi mới lấy xong bằng đại hoc nghệ thuật từ nước ngoài, mới về nước, nên còn mê công tác văn học nghệ thuật. Chưa biết say mê ngành y, cho nên đã từ chối lời mời của bác Bộ trưởng Bô Y tế, kiêm Viện trưởng Viện Đông y. Tôi nói:
- Thưa bác, cháu làm tổ trưởng tổ nghiên cứu thì làm sao các vị phó tiến sĩ y dược nghe theo lời cháu. Đã lập một tổ chức gồm toàn các vị có chuyên môn cao, sao bác không ra lệnh cho các vị chịu trách nhiệm bào chế cho thành công? Làm như vậy có phải tốt hơn không?
- Cháu ơi, vấn đề phức tạp lắm. Phải nói thật, mặc dù Đảng bảo phải coi trọng Đông y, nhưng những người có học vị cao, đã có mấy người thật sự tin tưởng Đông y! Hơn nữa, bài thuốc của cháu gồm bốn vị, thì con trùn đất dễ bị người ta gớm. Còn ba vị kia: đậu đen, đậu xanh, rau bù ngót, rất dễ làm cho người ta coi thường. Do hai đặc điểm đó nên bài thuốc của cháu có thể khiến người ta thiếu quyết tâm nghiên cứu thật đến nơi đến chốn. Chỉ có cháu, người đã có kinh nghiệm thực tế, đã từng cứu sống hàng trăm người, giành giật họ lại từ tay thần chết, thì cháu mới có đủ quyết tâm và lòng tin, để đưa cuộc nghiên cứu đến thành công. Bác tin cháu, cử cháu làm, bác phải có trách nhiệm theo dõi sát và buộc mọi người phải làm đúng theo lời cháu. Với bài thuốc đó, bác tin là thời gian hoàn thành công trình sẽ rất ngắn. Bởi vì, đặc điểm 65 phút của nó rất đặc biệt. Nó xác định xác bước nghiên cứu của ta bằng cách xem giờ. Bác tin rằng có thể chỉ một năm, ta sẽ hoàn thành công trình này.
Bác Bộ trưởng rất tin ở bài thuốc, tin ở tôi, từng lời bác mang nhiều ý nghĩa khích lệ, động viên tôi dũng cảm nhận trách nhiệm lớn. Tuy nhiên, tôi vẫn ngại, cái lo ngại tự nhiên của một người mặc dù có kinh nghiệm thực tế không phải ít, có đọc sách trình độ cao, nhưng chưa được học có hệ thống lý luận nghiệp vụ chính quy trường lớp.
THẦN DƯỢC CỨU MỆNH 3
Đã hai lần tôi bị chất vấn đến tháo cả mồ hôi hột, cho nên tôi phải sợ. Tuy tôi trả lời trót lọt ở cả hai lần, lại được khen, được hoan hô. Nhưng điều đó không làm tôi hết sợ được.
Lần thứ nhất, cháu Chín 15 tuổi, ở 105 Hàng Bột – Hà Nội bị hôn mê sâu đã 9 ngày. Từ bệnh viện Đống Đa, cháu đượcchuyển qua Saint Paul, rồi bệnh viện Cu Ba. Bữa đó bác sĩ bệnh viện Cuba ra trạm y tế. Trạm hỏi, bác sĩ Cuba nói: “Cháu Chín ở phố này, chúng tôi coi như đã chết 5 ngày rồi. hiện nay hàng ngày tiêm 2 triệu đơn vị kháng sinh và vô nước biển. Nhưng không hy vọng sống. Đợi tay cháu cứng đơ thì đưa chôn thôi”.
Nhà cháu cách con hẻm 200m là đến trạm y tế khu phố. Tiếng hai bác sĩ nói, má cháu ngồi mái trước nhà nghe rõ hết nên 6 giờ tối bà cho con trai đi tìm tôi. Bấy giờ tôi vào bệnh viện gặp Giám đốc trực đề nghị phối hợp Đông y. Bị từ chối, tôi quay về nhà cháu nấu thuốc đưa má cháu bảo đem vô lén đổ. Kém mười lăm 8 giờ đổ thuốc, thì 9 giờ kém 10 cháu tỉnh. 9 giờ, tất cả người nhà phải ra khỏi bệnh viện. Sáng sớm tôi vào thấy cháu đang ngồi ăn cháo. Người nhà quây tròn quanh giường. Cổ cháu niểng: đầu cúi, lắc lắc, hai mắt toàn tròng trắng, miệng méo, tay quều quào. Tôi bảo đưa cháu về để tôi trị tiếp. Mẹ cháu nói:
- Anh ơi, cháu quều quào như đứa có tật vậy, hai mắt không có tròng đen, đưa về nhà rồi cháu có khỏi không? Mọi cái có trở lại bình thường không?
Tôi bảo: bà cứ đưa cháu về, vài hôm cháu sẽ khỏi hẳn.
Gia đình xin đưa cháu về, bác sĩ chưa tin cháu đã tỉnh. Khi thấy cháu như vậy, bác sĩ càng không muốn cho về. Tôi phải cam đoan trị dứt các di chứng, bác sĩ mới cho về.
Vừa về đến nhà thì chị Lê – giám đốc bệnh viện quận Đống Đa tới ngay, có lẽ bệnh viện Cuba báo cho chị biết. Chị Lê nhờ tôi giúp bệnh viện Đống Đa. Cho uống thang thứ hai thì tay chân, đầu cổ cháu gần như bình thường. TRòng đen mắt cháu đã xuống nhưng lại nằm ở hai khóe mắt bên ngoài. Qua thang thứ ba, tròng đen mới trở lại vị trí của nó.
Chị Lê hàng ngày đến theo dõi tình hình. Qua ngày thứ tư, chị mời tôi cùng đi lên Bộ gặp Bộ trưởng. Bác Hưởng hỏi tôi rất tỉ mỉ về thể trạng của cháu trong thờigian tới, khoảng dăm, sáu tháng sẽ ra sao? Về lâu dài tim, óc có vấn đề gì không? Có bị di chứng không? Sau đó bác bảo tôi cố gắng thường xuyên đến giúp bệnh viện quận nhà. Bác nói với chị Lê:
- Những điều tôi hỏi và đồng chí Định trả lời, cô đã nghe rõ hết. Vậy từ nay trở đi lúc nào đồng chí Định đến bệnh viện, mà có góp ý gì về phương pháp trị bệnh, về sự chỉ định thuốc hoặc đồng chí đề nghị gì thì cô nên nghe theo.
Cháu Chín về nhà được tuần thì xảy ra sự cố. Dãy nhà phía sau nhà Chín, ông chú nhà ở ngay cửa sổ chỗ Chín nằm: ổng đi phố làm mất chìa khóa. Về không mở được cửa, ông đi mướn búa tạ về đập. Vì ổ khóa và khoen cửa của ông loại to nhất nên ông phải đập đến cả chục cái mới tới được ổ khóa. Từ chỗ ổ khóa nhà ổng đến chỗ Chín nằm chỉ cách có 2 m. Tiếng đập khóa rầm rầm làm Chín hốt hoảng ngất lịm. Người khỏe mạnh còn chịu không nổi, huống hồ người từ cõi chết mới trở về, tim óc còn rất yếu.
Gia đình đưa Chín trở vào bệnh viện Đống Đa và báo cho tôi biết. Tôi vào viện thấy đang cho tiêm Adrenalin. Chị Lê hỏi:
Ta lại cho uống thuốc nam hả anh?
Chị à, bệnh cháu đã khỏi. Siêu vi trùng không còn. Lần này cháu hôn mê sâu do bị cú sốc tim và thần kinh. Chị không nên cho cháu dùng thuốc, nhất là những thứ có nhiều độc tố như Adrenalin. Chị nên dùng các chất phóng xạ như tia cực tím, hồng ngoại hay laze, nguyên tử đều được. Ta dùng năng lượng phóng xạ mà gọi thức thần kinh trung ương. Cháu hôn mê lần nầy do quán tính của cuộc hôn mê trước, nó kéo thần kinh trung ương của cháu quay trở lại tình trạng liệt trước kia mà thôi. Do vậy, ta chỉ cần gọi nó tỉnh dậy, hoạt động trở lại, không cần thuốc.
Chị Lê đưa cháu sang bệnh viện Bạch Mai, để nhờ phóng xạ trị liệu. Lúc đó các máy phóng xạ đều đưa sơ tán về nông thôn hết, nên chị Lê lại gọi tôi đến. Tôi nói:
- Nếu không có máy nào hết, thì chị tìm mua cái manheto xe hơi, bắt hai cực điện vào hai trái tai cháu, rồi lắc đầu ma-nhê-tô mà nạp điện. Điện ma-nhê-tô cũng giật khá mạnh, có thể gọi tỉnh. Nhưng điện ma-nhê-tô chỉ có 12 vôn, không thể giật chết. Dòng điện trên 40 vôn mới có thể giật chết người.
Chị Lê hỏi:
- Nạp điện mấy lần, mỗi lần bao lâu?
Tôi nói:
- Chị cứ cho gật gật cái đầu ma-nhê-tô năm bảy cái một lần. Cách sáu bảy giờ sau nạp một lần nữa. Có thể sau năm lần nạp điện cháu sẽ tỉnh.
Quả nhiên sau năm lần nạp điện cháu tỉnh lại, sau đó khỏi bệnh. Một năm sau gặp lại Chín, tôi biết cháu đã bỏ học, đi làm cô mẫu giáo. Mười sáu tuổi mà cháu cao hơn mét sáu, nặng gần sáu mươi kí, rất hồng hào khỏe mạnh.
Về thời gian bệnh lui sau 65 phút, tôi xin nói rõ. Có những trường hợp đặc biệt, như bệnh bụng báng nước , hậu quả của bệnh viêm gan siêu vi (mỗi ngày có thể lấy từ ổ bụng cả 18 – 20 lít nước) và phù toàn thân hậu quả của phù thận nhiễm mỡ, thời gian lui bệnh có thể lâu hơn, tức vài ngày sau mới khỏi hẳn. Tuy vậy đến phút 65 ấy, trong người bệnh vẫn có sự thay đổi lớn, báo hiệu rõ nét bệnh bắt đầu lui.
Ví dụ chuyện anh chàng thổi kèn đồng trompette của Đoàn ca múc Thái Ly. Đồng chí đó bị phù thận nhiễm mỡ từ nhiều năm. Khi đoàn ca múa quân giải phóng của Thái Ly ra Hà Nội để đi nước ngoài. Hôm đó chỉ còn 4 – 5 ngày nữa là lên đường bỗng đột ngột đồng chí ấy bị phát phù toàn thân. Mình mẩy, tay chân, mặt mũi phồng tròn đến căng da, cứ y như người được bơm hơi. Bác sĩ đành buộc đồng chí ở lại và dĩ nhiên cả đoàn phải ở lại. Vì văn công quân đội mà thiếu cây kèn xung trận thì không thể được, mượn người khác thì bao giờ mới tập xong các tiết mục? Đồng chí bèn tìm đến nhà tôi, nói như mếu, năn nỉ tôi tiếp cứu. Tôi làm thuốc đưa cho. Cầm thuốc, đồng chí mừng quá vội cáo lui, tôi dặn:
- Uống xong 65 phút có sự thay đổi trong người. Cho nên có cảm giác gì lạ em cứ bình tĩnh. Đó là hiện tượng bệnh lui, không có gì mà sợ.
Sáng sớm hôm sau, mới tờ mờ sáng anh chàng mò đến, báo tin khỏi bệnh đã được bác sĩ của đoàn cho đi nướ ngoài. Người đồng chí ốm nhom, ngó chỉ bằng phân nửa hôm qua. Đồng chí nói:
- Uống xong hơn tiếng người em bỗng nghe rần rần, y như có hàng triệu con kiến đang bò trong xương trong máu. Em sợ quá nhưng nhớ lời anh dặn, em ráng bình tĩnh. Từ đó tới sáng em đi tiểu tiện hơn chục lần, khát nước uống nước hoài. Đến sáng thì hết phù. Bác sĩ phải kêu trời sao em khỏi bệnh lẹ vậy. Nếu vì em mà cả đoàn bị ách tắc lại, kế hoạch đã bố trí với nước ngoài bị xáo trộn hết, chắc là em phải rất khổ tâm.
Nói chung “thần dược” có đặc điểm 65 phút thật kỳ lạ. Đang hôn mê cả chục ngày vụt mở mắt, đòi ngồi, đòi ăn uống, đòi tiêu tiểu. Đang điên bỗng tỉnh như người thường. Đang bí tiểu tiện thì đi được. Bí cả chục ngày bỗng tiểu loãng. Ung thư gan, ruột bệnh viện bỏ chết cho về, bỗng xổ ra hàng chậu nước đen, thối như cả một con bò chết sình để trong nhà. Tai biến mạch máu não cả chục ngày cũng tỉnh dậy, nói cười được.
Bây giờ, xin trở lại câu chuyện cháu Chín. Vì cháu ngất lần thứ hai, và vì tôi không chờ bệnh viện Đống Đa dùng thuốc, lại chỉ định dùng dòng điện 12 vôn gọi cháu tỉnh dậy, cho nên tôi bị sát hạch lần thứ hai, không phải trước Bộ trưởng Bộ Y tế mà là trước mặt hơn hai trăm vị có chuyên môn cao của hội đồng kĩ thuật của Bộ. Do đó khiến tôi rất sợ, cho nên đã từ chối cơ hội ngàn năm có một bác Bộ trưởng đã dành cho tôi, để tôi có đóng góp đáng kể cho đồng bào và cho nhân loại. Muốn lưu niệm sự kiện đó, năm 1973 và 1978, khi sanh hai con trai, tôi đã đặt tên các cháu là An Vinh và An Vịnh. Đó là hình ảnh hai chữ AV mà bác Ba Hường, Bộ trưởng dự định đặt tên cho bài thuốc của tôi, nếu nó được chế thành công dạng thuốc tiêm.
THẦN DƯỢC CỨU MỆNH 4
Bỏ mất cơ hội đó, tôi cứ tiếc mãi. Suốt 27 năm qua, cứ mỗi lần đọc báo, xem đài, nghe thấy tin dịch bệnh vẫn hoành hành, các cháu vẫn chết. Vào bệnh viện thấy các cháu nhỏ hôn mê sâu, nằm im như xác chết xanh lè, là tôi không sao cầm được nước mắt. Có lần đang ăn cơm mà tôi phải buông đũa rồi khóc nức nở như trẻ nhỏ. Một lần, kiềm không được lòng mình, tôi đã la lên: Trời ơi! Thuốc đây! Có thuốc đây, tại sao các cháu vẫn chết, hỡi trời?
Gần 30 năm đã trôi qua, mà tôi cứ tự trách mình, tự dằn vặt mãi. Cứ mãi cho rằng do tôi, năm đó tôi đã thiếu trách nhiệm, đã thiếu dũng cảm mà nên. Khổ nỗi ở nước ta, nhiều người vẫn còn gớm con trùn cho nên bài thuốc vẫn không được dùng rộng rãi?
Cuối cùng tôi quyết phải cố gắng viết, đưa vấn đề này lên mặt báo, để bài "Thần dược cứu mệnh" đến tận tay đồng bào, nhất là bà con ở các vùng xa xôi hẻo lánh, đường đi tới bệnh viện có khó khăn, người ta buộc lòng phải tự làm để cứu mạng người thân. Nếu có hàng trăm, hàng ngàn người được cứu sống, thì bài thuốc này sẽ được khẳng định.
Hoặc giả, trong cả triệu nhà chuyên môn, nhà nghiên cứu sẽ có những người tin tưởng nó, dùng nó để trị bệnh, dùng nó để chế thuốc tiêm, tiện dùng hơn, hiệu quả hơn.
Nếu thật sự có những vị như thế, trong nước như ngoài nước thì khi các vị cần tôi hợp tác, tôi sẽ luôn luôn sẵn sàng làm bất cứ việc gì, đi bất cứ nơi đâu.
Bài thuốc gồm 3 vị : Trùn đất, đậu đen, bù ngót. Trong quá trình trị bệnh cứu người, tôi có gia thêm vị thứ tư là đậu xanh. Vì tôi nghĩ: đào trùn có khi ở gốc chuối, có thể có những chai lọ hóa chất, hoặc trùn đào tại các cây có độc như xương rồng, sầu đâu, chùm ruột, ít nhiều bị nhiễm độc, sẽ có đậu xanh giải độc.
Từ khi tôi thêm vị đậu xanh, năm 1954 đến nay, thuốc vẫn đẩy lùi bệnh sau 65 phút, y như thang gốc. Nghĩa là hầu hết các trường hợp cứu bệnh tôi kể trên, thuốc đều có 4 vị, tức có thêm đậu xanh.
Bài thuốc như sau:
1/Địa long 50g mỗi thang, tương đương 50 con trùn tươi(Xin mách : ở khu chợ thuốc bắc, đường Hải Thượng Lãn Ông Chơ Lớn lúc nào cũng sẵn, muốn mua cả tạ cũng có ). Nếu không có điều kiện mua Địa Long thì đào trùn tươi (loại màu sẫm rất dai, đào trúng nó, nó không giãy co lại thành 1 núi tròn). 50 con cho liều người lớn hoặc từ 15-16 tuổi trở lên. 30 con cho trẻ từ 5-6 tuổi đến 13-14 tuổi. 20 con cho trẻ từ 1-2 tháng tuổi đến 5-6 tuổi.
2/ Đậu đen, đậu xanh mỗi thứ 100g (sách cổ ghi: 1 bụm to).
3/ Rau bù ngot bằng 2-3 mớ bán ở chợ, khoảng 200-300g, băm nhỏ cả cọng và lá.
Trùn rọc ra, rửa sạch sao thơm giòn, giã nhỏ. Đậu và rau sao thơm, tất cả cho vào siêu hoặc nồi đất hay nồi nhôm gang đều được. Cho vào 4 chén nước, sắc còn 1/2 hoặc 1/3 chén cho người bất tỉnh, phải cạy răng đổ. Thuốc nầy uống 1 thang cũng thấy hết bệnh, nhưng tôi thường cho uống 3 thang trong 3 ngày (tối nước nhất, sáng nước nhì). Hai thang sau để trừ căn và triệt các di chứng (như tai biến mạch máu não có thể di chứng câm, què quặt tay chân, hư mặt, tai ... sốt xuất huyết dễ hư tim, óc ... ) cho nên khi uống thang thứ 2, thứ 3, bệnh nhân đã tỉnh táo. Thuốc có thể pha đường cho dễ uống. Bù ngót sao thật khô giòn, thuốc sẽ có vị thuốc bắc. Bù ngót để tươi sắc không sao, nước thuốc giống chè đậu đen pha đường uống rất ngon.
Thuốc nầy bệnh càng nặng càng thấy rõ hiệu quả 65 phút. Bệnh nhẹ ít thấy rõ kết quả 65 phút, nhưng bệnh vẫn lui. Ở Đại Hàn (Nam Triều Tiên) là xứ sở nhân sâm Caoly, mà người ta còn tẩm bổ bằng cháo trùn. Ở nước ta các dân tộc miền núi phía Bắc trị bụng báng trướng nước bằng cách : trùn băm nhỏ để tươi, trộn với sữa, cứ để thế múc nuốt. Triều Tiên thì cháo trùn là món ăn ngon (đặc sản) chứ không chỉ là món thuốc vừa tẩm bổ vừa trị bá bệnh. Trùn băm nhuyễn, xào thơm, nấu với đậu. Vì quý chất bổ và chất trị bá bệnh của con trùn nên người ta đâu có gớm nó. Huống hồ khi cần trị bệnh nan y hoặc giành giật mạng sống từ tay thần chết, thì có gì mà gớm? Mong rằng đồng bào và các cơ sở y tế hãy mạnh dạn dùng nó trong các bệnh siêu vi trùng, kể cả sida.
Nhân đây tôi xin nói rõ thêm hội nghị tổng kết chống bệnh sốt xuất huyết đợt 1 họp năm 1970. Thông tin nầy được đưa ra toàn thế giới. Nước Nhật nghiên cứu, ứng dụng điều trị. Đến năm 1972, đọc trên tạp chí Đông y của Việt Nam (in bằng khổ quyển Kiến thức ngày nay) tôi thấy có dịch và in lại những bài trong tạp chí Đông y Nhật Bản. Họ hết lời ca ngợi "bài thuốc con trùn của Việt Nam", dùng trị siêu vi trùng rất có hiệu quả. Có lẽ do công bố đó của Nhật mà sanh ra món cháo trùn ở Đại Hàn chăng? Tôi còn nghe một người từ Mỹ về nói bên đó người ta làm thuốc bằng trùn và đậu đen. Điều đó không rõ thực hư thế nào. Nhưng điều chắc chắn là Liên hiệp quốc, trong mấy năm trước đây, có chủ trương: "Tìm về cội nguồn các dân tộc kém phát triển, để học cách trị bệnh bằng cỏ cây và côn trùng". Do đó, ta thường thấy trên tivi và báo chí các cách trị bệnh kỳ lạ của dân da đen, da đỏ.
Càng nghĩ tới các điều đó, tôi càng thấy đau lòng, nhớ lại đề nghị của bác Ba Hưởng muốn tôi bào chế toa thuốc thành thuốc tiêm. Đúng là "không sao kéo lùi lại thời gian đã qua". Nhưng việc bào chế thuốc đó thành thuốc chai (để thêm acid benzoide bột) hoặc chưng cất nó như cất rượu, dù có trễ gần 30 năm, nhưng lúc nào bắt đầu, nó vẫn là việc mới, việc hết sức cần thiết.
Tôi tuy tuổi đã cao nhưng vẫn còn muốn đóng góp. Các cơ sở nghiên cứu, bệnh viện hoặc bệnh nhân cần tôi, tôi vẫn sẵn sàng phục vụ. Ngoài toa "Thần dược cứu mệnh", tôi còn trong tay nhiều bài thuốc quý khác. Ví dụ: bó xương gãy, kể cả xương sống dập nát và xương đòn gánh gãy lìa, chỉ cần thời gian 15 ngày. Bản thân tôi bị dập nát 2 đốt xương sống, quân y Quân khu 9 bó tay, báo tử về đơn vị, nhưng tôi nay vẫn sống mà không tật nguyền, vẫn tập tạ 50kg và đánh quần vợt khi tôi trên 40 tuổi, đang ở nước ngoài có độ lạnh âm 20 độ. Lúc trị lành 2 đốt xương sống không có kẹp nẹp bó bột gì hết. Chỉ nằm sấp dội thuốc nóng vào lưng suốt 15 ngày đêm. Sang ngày thứ 16 tôi ngồi dậy và đi ra đồng cả trăm mét. Nếu tôi có dịp, tôi sẽ lần lượt giới thiệu nhiều bài thuốc quý trên báo để phục vụ bạn đọc.
Dưới đây, tôi cũng xin ghi rõ địa chỉ và số điện thoại của mình, để bạn đọc tiện liên hệ trao đổi thêm về nội dung bài viết. NGUYỄN AN ĐỊNH, (40/10 Hậu Lân-Bà Điểm-Hóc Môn-TPHCM) - ĐT 8914379.
-----------------------oOo----------------------------
NÓI RÕ VỀ CÔNG HIỆU CỦA BÀI THẦN DƯỢC CỨU MỆNH
Để đồng bào cùng các vị lương y, các đồng chí phụ trách bệnh xá bệnh viện ở xã và huyện có thể mạnh dạn dùng bài thuốc nam “Địa Long” có tên thần dược. tôi xin thống kê thành bản rõ ràng, công hiệu của nó đối với các bệnh thường gặp, đồng thời ghi rõ các phần biểu hiện của bệnh (chuyên môn gọi là hiện tượng lâm sàng) và những lắc léo trong phương pháp điều trị.
Công hiệu của bài thuốc như sau:
1/ SỐT XUẤT HUYẾT: (Siêu vi thử máu biết ngay)
Hiện tượng hôn mê kéo dài
Xuất huyết dưới da, nổi vệt đỏ tím xanh đen khắp người
Xuất huyết nội tạng, tiêu phân đen, tiểu máu tươi kéo dài, tiểu ra máu, xuất huyết miệng mũi, mắt, tai.
2/ BỆNH SIÊU VI: Viêm gan siêu vi, viêm não siêu vi, phù thận, phù tim. Có thể hết bệnh khá nhanh, kể cả phù toàn thân.
3/ TAI BIẾN MẠCH MÁU NÃO: Không quá 5 ngày, theo sách cổ nói Nam 7 ngày, Nữ 9 ngày, nhưng tôi thấy quá 5 ngày có thể lưu di chứng liệt. Tốt nhất trong vòng 3 ngày trị ngay sẽ khỏi di chứng. Nếu để lâu nhiều tháng nhiều năm, trị di chứng bằng thời gian đã trị bệnh, có khi lâu hơn.
4/ PHONG XÙ: 1 – 3 thang dứt bệnh cho cả đời.
5/ TIỂU ĐƯỜNG: Mười thang có thể hạ lượng đường đến mức cho phép.
6/ HUYẾT ÁP THẤP: Uống xong tăng huyết áp thấy rõ từng ngày.
7/ HUYẾT ÁP CAO: 2 – 3 ngày đầu tăng lên, cộng độ 20 số, 150 lên 170. Ngày thứ 3 – 4 hạ dần đến ổn định, cho nên người huyết áp cỡ 190 trở lên không nên dùng thuốc nầy. Khi huyết áp hạ nên theo dõi, đừng để hạ quá thấp (nếu thấy chóng mặt thì dừng)
8/ UNG THƯ MÁU: Vài thang có thể hết bệnh
9/ CÙI (PHONG ĐƠN): Uống dài hạn có thể da đẹp trở lại, hết sần sùi.
10/ UNG THƯ CÁC DẠNG: (K)
Khi bệnh viện đã chê (kể chắc là chết) nên dùng để cứu. Đã cứu nhiều trường hợp (K dạ dày, K gan thận, K lưỡi, K xương…). Hy vọng cứu sống 5 – 60%
Và dạng ung thư mới phát và lành tính, có thể hy vọng cứu 6 – 70%
Ung thư giai đoạn 2, 3, 4 không dám bảo trị được.
11/ TĂNG CƯỜNG SINH LỰC: Cho trẻ còi xương, suy dinh dưỡng, người già suy nhược cơ thể, người bệnh mới hết, người sinh và cho con bú, người thiếu máu (cả chất và lượng), trung niên suy yếu.
12/ CÁC CHÁU CÒI 1, 2, NĂM CHƯA NGỒI ĐƯỢC, ĐẦN ĐỘN: Có thể giúp cháu ngồi.
13/ KHÔNG TRỊ ĐƯỢC: Các bệnh phong tình, nấm ngoài da, xoang, gai cột sống, mắt cườm.
BÀI THỨ 5:
“HẬU KỲ THẦN DƯỢC CỨU MỆNH”
Từ hôm bài “Thần dược cứu mệnh” được đăng 4 kì cho đến nay đã hơn tháng, ngày nào tôi cũng nhận được cả chục lần lượt điện thoại, từ các xã, huyện ở Long An, từ các quận 4,5,6,8,10,11,12 cả từ Nghệ An, Thái Bình ở Miền Bắc gọi tới: phần lớn nói đã dùng thuốc và nói đến trong bài báo, hỏi có nên dùng không? Tôi khuyên nên dùng thử. Ít ngày sau nhận được điện thoại họ gọi tới bảo bệnh giảm đáng kể hoặc hết hẳn. Như các bệnh tiểu đường dùng 3 thang giảm hơn 50%, dùng tiếp 3 thang, thử bằng que giấy thấy không lên màu nữa (ví dụ: ông Mười Trâm, 12D đường Lữ Gia, Tân Bình. Nhiều ca bệnh huyết áp cao, huyết áp thấp, uống 4 – 5 thang thì huyết áp đều trở lại bình thường. Một độc giả bảo chú của ông hồi nhỏ bị phong xù (động kinh) nhờ ông nội nhai trùn nhổ cho uống 1 lần mà dứt hẳn bệnh mấy chục năm nay, nên ông khẳng định bài thuốc này có thể trị dứt bệnh phong xù. Ông Đức – tiệm đồ gỗ Đức Phát (đối diện Bưu điện Q.5, điện thoại số 8558887) bị viêm gan siêu vi chỉ số 155 uống 3 thang thử lại còn 11, uống 3 thang nữa thử lại bệnh đã khỏi. Từ nhiều năm qua ông Đức đau gan mà mãi không hết, uống 6 thang dứt bệnh.
Ông Phạm Minh Lộ nguyên Giám đốc Sở thương binh – xã hội Long An, hiện ở số 9 Khu Hậu Cần. phường Thới An. Quận 12 (Hóc Môn cũ) điện thoại 8912448, bị cao huyết áp từ nhiều năm. Ông đã dùng đủ cách thuốc tây, thuốc bắc không khỏi. Vừa qua ông bị tai biến mạch máu não, đang tắm ngất xỉu phải cấp cứu. Khi ông tỉnh lại cảm, nằm im không ngồi dậy được, không tiêu tiểu suốt 10 ngày, bệnh viện bảo di chứng mạch máu não khó mà trị được. Thấy báo đăng bài thuốc hay, con gái ông cho ông uống 5 thang, ông nói được tuy còn ngọng nghịu ngồi dậy được uống thêm 5 thang nữa, nói được rõ và to, tự ngồi dậy đi tập dưỡng sinh múa gậy được mà bịnh huyết áp cao cũng biến mất. Bài thuốc đồng thời giúp ông Lộ trị dứt hai căn bịnh rất khó trị là vừa tai biến mạch máu não, vừa huyết áp cao. Đặc biệt có ông Nguyễn Văn Bé, Phó Giám đốc Công ty Dược liệu 2 Trung ương, kiêm Giám đốc Cơ sở trồng cây thuốc 2000 ha, chuyên chiết xuất thuốc từ thảo mộc và sản xuất thuốc tây (điện thoại 84.8.8323007 – 84.8.832.3009). Khi đọc xong bài báo, ông liên hệ ngay với tôi, sau đó tìm đến tận nhà, cùng đi với một tiến sĩ dược – Quốc tịch Pháp. Vừa bước xuống máy bay, ông bạn cùng ông Bé đến nhà tôi trong cơn mưa. Ông Bé nói:
- Tôi là người hiểu rõ tác dụng của con trùn đất. Năm 1964 tôi vào Nam chiến đấu bị thương vào đầu. Sau khi lành vết thương, tôi bị mất trí nhớ và trí thông minh nghiêm trọng. Tôi phải uống con Địa Long liên tục rất nhiều năm. Trí nhớ và trí thông minh của tôi được phục hồi, và tôi trở thành một nhà khoa học, vừa quản lý cả Công ty Dược miền Nam, vừa quản lý một cơ sở trồng thuốc và sản xuất thuốc khá lớn, có qui mô 2000 ha đất với xưởng có nhiều máy móc hiện đại, có những chuyên gia Anh, Pháp cùng làm việc. Tôi muốn mời bác Định đến làm việc với chúng tôi, tôi tin rằng với thời gian không lâu, chúng ta sẽ thu gom bài thuốc của bác Định chỉ bằng 2 viên nang con nhộng thôi. Về thể tích thì thu gọn nhỏ nhất, nhưng về chất lượng khả năng trị bịnh, ta vẫn giữ nguyên một thang có đầy đủ 4 vị vớ I gr địa long. Với hệ thống máy móc hiện đại, chúng ta sẽ làm được điều đó. Trong thời gian tới dù bác Định có đủ sức khỏe để cùng làm việc với các cháu, hay bác không tiện làm việc, mà chỉ có mình chúng cháu làm, chúng cháu cũng coi đó là bài thuốc của bác. Vì nó khác với cháu đã dùng nhiều năm nay và cháu đã chế biến nó thành 2 con nhộng.
Tôi xin nhờ báo Long An đăng thư nầy thông báo các mẩu tin ngắn trên đây để bà con tin tưởng ở bài thuốc hơn mà tích cực dùng nó để trị bịnh cứu người. Đồng thời cũng có thể vui mừng vì sắp tới đây “Thần dược cứu mệnh” sẽ thành viên nang con nhộng, có mặt trong nhà thuốc Tây để bà con ta tiện dùng vì mỗi lần chỉ uống có 2 con nhộng. Người bất tỉnh phải cậy răng đổ thuốc. Thì chỉ cần một muỗng cà phê nước, trút bột trong 2 con nhộng đó ra, hòa đều rồi đổ, rất tiện lợi.
Xin cảm ơn trước dược sĩ Nguyễn Văn Bé cùng Công ty Dược liệu trung ương 2 và Cơ Sở Y Dược của ông. Chúc chúng ta thành công trong việc biến “Thần Dược Cứu Mệnh” thành viên nang nhỏ để đưa rộng rãi cho mọi người đều dùng thuốc dễ dàng.
Ngày 10 tháng 6 năm 1997
NGUYỄN AN ĐỊNH 40/10 Hậu Lân – Bà Đoàn Thị Điểm- Hóc Môn – TP. Hồ Chí Minh.
Tel: 8914379
hội chứng ái phạm nhân 在 Tifosi Facebook 的最佳貼文
LỢI DỤNG DANH NGHĨA ĐẤU TRANH BÌNH ĐẲNG GIỚI, CỔ XÚY HÀNH ĐỘNG VI PHẠM PHÁP LUẬT VÀ ĐẠO ĐỨC XÃ HỘI
Tổ chức Thúc đẩy Bình đẳng giới Việt Nam VOGE, gọi tắt là VOGE, có đăng tải những thông tin về các mối quan hệ CNM - hay còn gọi là mối quan hệ đa ái, là mối quan hệ mà sẽ có nhiều hơn 2 người trong một mối quan hệ yêu đương dựa trên sự đồng thuận. Trong đó, VOGE có viết về sự văn minh của mối quan hệ CNM, đó là việc 2 người “mở việc quan hệ” cho người khác, chia sẻ và trao đổi bạn“quan hệ”, ủng hộ việc “quan hệ” có nhiều hơn 2 người.
VOGE nói chắc nịch: “CNM - hay quan hệ đa ái không trái đạo đức và tiêu chuẩn tình yêu”.
Vâng VOGE nói thì rất hay, nhưng lại không có chút hiểu biết về luật pháp cơ bản nào. Theo Điều 36, Hiến pháp Việt Nam 2013 có ghi rõ: “Hôn nhân theo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau”. Theo Điều 182 Bộ luật Hình sự năm 2015 có ghi rõ: “Người nào đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm”.
Thêm nữa, định nghĩa “kết hôn” là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng với nhau theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn. Kết hôn giữa một vợ, một chồng.
Đứng trước pháp luật, mọi sự đồng thuận “bằng mồm” để bào chữa cho quan hệ đa ái đều là vô dụng. Làm quái gì có chuyện bị cáo đứng trước tòa và nói: “Dạ thưa quý tòa, bọn em đồng thuận rồi nên quý tòa không được phép xử lý bọn em”? Luật đưa là trò đùa à? Thỏa thuận bằng mồm đứng trên pháp luật à?
VOGE nói rằng mối quan hệ CNM không vi phạm đạo đức, nhưng khổ quá là nó vi phạm pháp luật, được chưa. Không phải hành vi vi phạm đạo đức này cũng được đem ra trước pháp luật, nhưng đã vi phạm pháp luật chắc chắn là vi phạm đạo đức. Ngoài ra, nếu chấp nhận hợp pháp một mối quan hệ có 3, 4 hoặc N người, sẽ là một rủi ro liên quan đến việc phân chia tài sản, quyền thừa kế rủi ro về hôn nhân cận huyết, làm suy tàn nòi giống. Có chắc rằng một người chỉ tham gia một mối quan hệ hay không? Và có gì đảm bảo họ chỉ duy trì việc quan hệ với những người trong cùng một mối quan hệ? Rồi những người này lại đi tìm “của lạ” ở các mối quan hệ khác thì sao? Con cái của họ sẽ thế nào? VOGE không lý giải và không đưa ra bài toán giải thích, cuộc sống đâu phải lúc nào cũng chỉ có màu hồng?
Và trong bài viết, VOGE không chứng minh được là nó không vi phạm đạo đức ở chỗ nào, ngoài hai từ “đồng thuận”. VOGE cũng không dẫn chứng được là vi phạm “tiêu chuẩn tình yêu chỗ nào”. Mà mại dâm cũng là dựa trên sự “đồng thuận”, mại dâm cũng không đáng lên án đúng không?
Về cơ bản, đại đa phần người bình thường với nhận thức đầy đủ đều hiểu rằng quan hệ tình yêu là giữa 1 và 1. VOGE nói rằng hành vi “swinging” - có nghĩa là trao đổi bạn “quan hệ” là hành vi đúng miễn là có sự đồng ý của các bên. Vậy hãy liên hệ đến hiện tượng “trao đổi bạn - vợ/chồng” từng được các báo đài, truyền hình, dân mạng lên tiếng chỉ trích, một lối sống phóng túng, bầy đàn, vi phạm pháp luật, các mối quan hệ đó đều dựa trên “sự đồng thuận” đó. Nhưng sai là sai, làm méo gì có chuyện “đồng thuận” ở đây? Tuyệt đại đa số xã hội phủ nhận sự có mặt của người thứ 3, thứ 4 hoặc thứ N trong một mối quan hệ tình yêu, việc này được pháp luật bảo vệ và dư luận ủng hộ.
VOGE nói rằng văn hóa phương Tây chấp nhận các mối quan hệ này vì sẽ giúp các thành viên gắn kết hơn, thỏa mãn hơn và trải nghiệm hơn. Không biết là phương Tây nào, chứ phương Tây cũng không hề đồng ý và cổ súy cái thứ “văn hóa thổ tả” này. Đầu tiên, pháp luật của đại đa phần các quốc gia trên thế giới đều quy định hôn nhân là giữa 2 người/các cặp vợ chồng, một số quốc gia đã gỡ bỏ hàng rào giới tính trong hôn nhân - có một số quốc gia duy trì chế độ đa thê/phu do đặc trưng tôn giáo chứ không phải do cổ vũ khái niệm CNM. Mà nếu có quốc gia nào đó đồng ý “đa thê” hay “đa phu” cũng không có nghĩa là Việt Nam phải học theo. Tại sao họ không học Việt Nam mà cứ bắt Việt Nam phải học họ? Hay trong con mắt của các bạn, thứ văn hóa truyền thống, lối sống phương Đông nói chung và Việt Nam nói riêng là xấu xí?
Mà tôi có một thắc mắc, là tại sao nhiều đơn vị cứ cho phương Tây là nhất, là văn minh, là tiến bộ còn phương Đông là cổ hủ, lạc hậu? Văn hóa mỗi nơi khác nhau, thậm chí vùng miền này vùng miền khác đã khác nhau, tại sao lại cứ phải đem những “tân tiến” của phương Tây áp đặt vào phương Đông? Rồi khi bị xã hội, văn hóa, con người phương Đông lên án, chỉ trích thì “dỗi”? Như chủ tịch Hồ Chí Minh, luôn có tư tưởng học tập tiến bộ, văn minh từ nước ngoài về, nhưng phải cố gắng giữ gìn và phát huy những truyền thống, bản sắc văn hóa dân tộc, phải biết “gạn đục khơi trong”. Nhà tư tưởng Nhật Bản Fukuzawa Yukichi cũng cho rằng việc tiếp thu văn hóa phải có chọn lọc nhất định, Nhật Bản học tập phương Tây nhưng không phải là một phiên bản của phương Tây.
Một đám người luôn hô hào phương Tây văn minh hiện đại và phủ quyết nền văn minh phương Đông, nhưng họ không biết rằng hoặc cố tình phớt lờ việc phương Tây không hoàn hảo và đầy rẫy những thứ “thổ tả”. Từ đó, họ muốn áp dụng những nét máy móc trong văn hóa phương Tây về với phương Đông.
Trải qua tiến trình lịch sử, xã hội đang cố gắng nâng cao vai trò, vị thế của người phụ nữ trong xã hội. Nhưng có một đám người lại đội danh nghĩa “bình đẳng giới”, hạ thấp vai trò, quyền lợi, trách nhiệm của người phụ nữ.
Hãy thử nghĩ về ví dụ thế này, một cặp vợ chồng đang sống hạnh phúc, người chồng đề xuất rằng muốn có thêm một “người vợ” nữa để “hâm nóng tình cảm”. Nếu người vợ không chịu, một là người chồng đó thôi, hai là người chồng đó sẽ đề xuất ly hôn. Nếu bạn là người phụ nữ, bạn nghĩ gì về lý do ly hôn như vậy? Báo Quân Đội Nhân Dân từng viết về mối quan hệ trao đổi “bạn quan hệ”, có nhiều phụ nữ phải cắn răng “chịu đựng”, chiều chồng con để ngăn chặn mối quan hệ đổ vỡ. Các mối quan hệ kiểu này vừa phạm pháp, vừa xâm hại đến sức khỏe, tinh thần của người phụ nữ, đã có nhiều trường hợp các bà vợ mắc các bệnh qua đường tình dục.
Hay giờ nhiều bạn lại vào trách ngược phụ nữ rằng, sao không thích thì ly hôn đi? Nhưng ly hôn đâu có phải đơn giản như trốn học đánh điện tử?
Không phải cứ khoác tấm áo choàng “chỉ cung cấp thông tin” mà có thể thích viết gì thì viết. Mà cung cấp thông tin kiểu gì mà lại phán xét rằng “không vi phạm đạo đức và tình yêu” rồi lại chỉ trích văn hóa Việt Nam? Đây là một đoạn bình luận, không phải là cung cấp thông tin, đừng có lừa chúng tôi. Có phải mới đọc chữ đâu? Mà đưa thông tin sai, vi phạm quy tắc hay đạo đức cộng đồng thì vẫn bị xử phạt như thường.
Nếu rảnh không có việc gì làm, thì đăng bài về kêu gọi hỗ trợ nữ giới, trẻ em, người già, người khuyết tật trong công cuộc phòng chống dịch bệnh đi. Nói nhanh cho nó vuông! Đem thứ “văn hóa” đó giữ lại cho các bạn dùng, đừng “khuếch tán” nó cho người khác.
---
#tifosi
hội chứng ái phạm nhân 在 Phạm Dương Ngọc Vlog Facebook 的最讚貼文
BÚT MÁU (1958)
---***---
Lương Sinh người ở Mân Châu, con nhà thế phiệt, nổi tiếng thông minh đĩnh ngộ từ khi tóc để trái đào. Lên tám đã giỏi thơ ca, từ phú, ai cũng ngợi khen là bậc thần đồng. Lên mười có bài "Tơ liễu trong trăng" được tán thưởng nhất mấy câu:
Trăng cũ phô đầu bạc
Liễu tơ chuốt mi dài
Trăng, liễu xa ngàn dặm
Một tối hẹn vườn ai.
Năm lên mười hai, gặp thời loạn ly, cha mẹ đều bị giặc giết, Sinh sầu thảm mấy tháng liền, mất ăn mất ngủ lại thêm căn tạng yếu đuối nên lâm bệnh nặng, thần kinh hốt hoảng, luôn luôn giật mình, nằm mơ thấy toàn máu lửa, sọ xương.
May có người cậu đem về săn sóc đêm ngày. Sau nhờ đạo sĩ họ Trình ở núi Hoa Dương cho bài Hi - di Ninh - thần dùng toàn não tủy một giống Bạch hầu trong núi Nga Lâm, uống thuần với nước viễn trí nên được lành bệnh, tâm thái trở lại an tĩnh điều hòa.
Khi lên mười lăm, Sinh được người cậu gửi đến Lã Công, một quan Thủ hiệu bãi chức từ lâu ở nhà mở trường dạy võ. Sinh học rất chóng, nửa năm đã làu thông cả mười hai môn võ bí truyền của nhà họ Lã. Lã Công quý mến, một hôm lấy thanh bảo kiếm của mấy mươi đời họ Lã lập công trao cho luyện tập. Giữa buổi Sinh đang múa kiếm, bỗng dừng phắt lại, đưa kiếm lên ngửi rồi cau mày kêu lên:
- Máu người tanh quá!
Đoạn đem thanh kiếm nộp trả, cáo từ mà về.
Đến nhà, lậy cậu thưa lên:
- Võ nghệ không phải là con đường cháu nên theo. Máu người chảy trong cơ thể quý giá vô cùng nhưng dính ra ngoài lại quá hôi tanh. Kẻ cầm lưỡi dao trọn đời sao cho khỏi đổ máu người! Điều tàn nhẫn ấy cháu không làm được.
Người cậu giận lắm, bảo rằng:
- Mày thực cạn nghĩ, phụ cả lòng ta trông đợi lâu nay. Đành rằng máu người là quý, nhưng để máu ấy chảy trong đầu bọn ác nhân thì càng tác quái cho người, lại càng có tội!
Lương Sinh cúi thưa:
- Ai cũng cho mình là phải, lấy đâu để nói xấu tốt rõ ràng? Làm thiện một cách hăm hở mà không ngờ rằng đấy là điều ác, lại càng có tội vì đã lừa mình, lừa người. Trộm nghĩ binh đao là nghề dứt khoát, cháu chưa dứt khoát trong người, tự thấy không dám theo đuổi.
Cậu nói:
- Hoài nghi như thế, e rồi không khéo mày tự mâu thuẫn với mày. Không phân biệt được giả, chân, thiện, ác, làm sao có thể tự tin mà sống trên đời? Xã hội chưa đâu có thể gọi là chốn thiên đường, bên cạnh nhà trường còn có nhà ngục, bên cạnh ngòi bút còn có lưỡi dao, không thể chỉ thấy một chiều chỉ yêu một cạnh. Vị tất nhà trường đã không tội lỗi, ngòi bút đã không oan khiên! Ta không có con, từ lâu kỳ vọng nơi mày, nhân thời tao loạn những mong cho mày múa gươm trận địa hơn là múa bút rừng văn. Bây giờ, thế thôi là hết. Từ nay tùy mày định lấy đời mày ta không nói nữa.
Từ đấy, Lương Sinh sẵn có nếp nhà phú túc, chuyên nghề thơ văn, tiêu dao ngâm vịnh tháng ngày. Lời thơ càng gấm, ý thơ càng hoa, tiếng đồn lan xa, lan rộng như sóng trên biển chiều gió thổi. Quan lệnh trấn mới đổi đến địa phương vốn người hâm mộ văn chương, cho vời Sinh đến. Thấy Sinh tướng mạo khôi ngô, lòng quan cảm mến, tiếp đãi hết sức trọng hậu. Sau đó, quan lệnh mượn những thi tuyển của Sinh trong một tháng trường, nhiều khi bỏ cả xử kiện để mà bình thơ.
Khi quan giao trả, Sinh thấy sau những bài đắc ý nhất của mình đều có bài họa, văn từ tao nhã, ý tứ thâm trầm, nét chữ uyển chuyển, dưới đề: "Tuyết Hồng tiện nữ chuyển họa". Hỏi, biết Tuyết Hồng là gái đầu lòng của quan. Theo lời nha lại tán tụng thì nàng tài sắc vẹn toàn, khiến Sinh đêm ngày tơ tưởng, cứ thấy giai nhân chập chờn trong cơn mộng ảo. Càng ngày Sinh càng tương tư mê mệt tưởng không có nàng thì không thể nào sống được. Nhiều lần lảng vảng sau tư thất để nhìn cho được Tuyết Hồng, chỉ thấy hoa sau rèm lá chập chờn, lại càng mê đắm tâm thần hơn nữa. Dịp đâu may mắn, quan mời Sinh đến uống rượu, ngỏ ý muốn kén Sinh làm giai tế. Sinh mừng run người, tưởng có thể đội mái nhà bay lên. Bấy lâu, ước ao người đẹp, bây giờ thế là thỏa nguyện.
Trong lễ hôn phối, Sinh mới nhìn rõ Tuyết Hồng: mặt nàng hơi gày, mũi nàng hơi to, lưng nàng hơi cong. Sinh rất buồn lòng, xong nghĩ duyên số tự trời, nhan sắc nàng kém nhưng tài nàng cao cũng là một điều an ủi. Suốt tuần trăng mật, nhiều lần Sinh ép Tuyết Hồng làm thơ xướng họa, nàng đều từ chối. Hỏi sao ngày xưa thi tứ của nàng dồi dào là thế mà bây giờ chẳng cho nghe được một lời nào, thì nàng cúi đầu ngập ngừng giây lâu mới đáp:
- Chàng kén thiếp làm vợ đâu phải để làm thơ? Đạo vợ lại là đạo lớn, e rằng đem hết trí lực chu toàn chưa chắc đã trọn, đâu dám lấy chuyện thơ văn mà làm chểnh mảng. Dù chàng ép nài bao nhiêu, thiếp cũng đành cam chịu lỗi.
Đã thế, nhiều lần Sinh đọc thơ cho nàng nghe bảo nàng góp ý, nàng cũng có vẻ hết sức dửng dưng. Sau cùng, Sinh đâm nghi hoặc, nghĩ thầm có lẽ những bài thơ họa ngày xưa không phải của nàng mà chính là của quan lệnh. Nghĩ thầm chứ không nỡ nói, cũng không dám nói, vì khi giận dữ Tuyết Hồng thường khóa chặt buồng nằm riêng, hai ba đêm liền không tiếp.
Càng ngày Sinh càng chán nản khôn khuây, ảo tưởng vỡ tan, tưởng như tuyệt vọng tình đời. Thiếu thốn hình ảnh giai nhân, cuộc sống tự nhiên cằn cỗi y như nuốt toàn thuốc đắng không có mật đường trợ vị. Nhân tết Nguyên đán, Tuyết Hồng về thăm song thân, Sinh bèn thừa dịp xuân nhật, noi gương Tử Trường ngày xưa phiếm du xuân thủy, tiếp lấy sinh lực muôn vẻ thiên nhiên nuôi cho văn khí thêm phần phong phú, siêu dật.
Bước ra khỏi nhà, Sinh chọn con đường hai bên cỏ non phơi phới, quanh co theo một dòng suối trong veo, lơ thơ bắc đôi nhịp cầu nho nhỏ, mơ màng lá đào rơi rắc, mà vào chốn thiên thai. Xuân ý, xuân tình chứa chan ở trong cảnh sắc, mầu trời, như theo giác quan rào rạt thấm vào mạch tủy, khiến Sinh ngây ngất. Đi đã ba ngày mà không nghĩ đến đường về. Đi được sáu ngày thì sực nhớ đến vợ ở nhà, nhưng vợ cách xa đến sáu ngày đường cũng không đáng sợ bằng những cơn giận dữ.
Đi đến mười ngày, tiền lưng muốn cạn túi thơ chừng đầy. Chợt đến một miền tiêu điều dân cư thưa thớt, Sinh chán nản định quay về, nhưng ruột đói lưỡi khô, bèn đi tìm một tửu quán nghỉ chân. Qua ba dặm đồng trơ trọi vẫn chưa thấy một bóng người để hỏi thăm nơi. Bỗng nghe phảng phất tiếng trống, tiếng chiêng, lẫn tiếng reo cười. Dò theo âm thanh vọng lại, lần bước đến nơi, thấy đám hội trước chùa, bèn vào quán nhỏ gần đấy ăn uống. Chủ quán cho biết đã mấy năm rồi ở đây mới có một ngày hội lớn, vì quan Khâm sai triều đình sắp về địa phương nên quan Tổng trấn họ Lý bày ra trò vui để cho dân chúng thỏa thuê ít bữa.
Đang ngồi nhắm rượu lại nghe những tiếng hò hét rồi thấy đám người ở cửa dạt ra hai bên có vẻ hết sức sợ hãi. Từ xa tiến đến một chiếc kiệu hoa do bốn người khiêng và thêm chừng mười lính hầu áo mầu lòe loẹt, tiền hô hậu ủng. Kiệu đến trước quán thì bị nghẽn người, dừng lại, Sinh ngước mắt lên, nhìn thấy khuôn mặt đàn bà tuyệt đẹp. Hỏi kẻ chung quanh, biết là Lý Duyên Hương con quan Tổng đốc vùng này. Người đẹp nhìn thẳng về phía trước, mặt hơi vênh lên, như không muốn thấy một ai quanh mình. Vẻ kiêu hãnh và nét sắc sảo của một khuôn mặt tươi hồng khiến Sinh ngây ngất, tưởng như gặp tiên giáng trần, sửng sốt chiêm ngưỡng, tay cầm ly rượu buông rơi lúc nào không biết. Ly rượu chạm vào mặt bàn vỡ tan, tỏa hơi nồng ra bốn phía. Người ngọc nghiêng đầu liếc xuống, thấy vẻ mặt Sinh ngây nhìn, chợt hiểu, bỗng nhoẻn miệng cười. Nụ cười lộng lẫy như hé sáng một trời tình, Sinh lảo đảo đứng lên, không phải say vì rượu, trả tiền cho chủ quán rồi tiến về phía kiệu hoa. Người xem đã giãn, kiệu vào trong chùa, Sinh vội bước theo, cố quên rằng mình đã có vợ ở nhà.
Trong chùa chật ních những người. Phần đông quần áo mùa xuân tươm tất nhưng mặt mày hốc hác mang nhiều vết hằn đau khổ. Ai cũng cố gắng mà vui, hình như không có dịp nào để vui hơn nữa. Lương Sinh chen vào, nghe mùi mồ hôi xông lên khó thở, gượng nghĩ vẫn còn hương thơm người đẹp đi qua sót lại phần nào. Khổ nhọc rất lâu, bước đến thềm trong thì đã thưa người. Thấy Sinh có vẻ nho nhã, người gác để Sinh đi qua. Vào tận trong xa vẫn chưa gặp được người ngọc. Thoạt nhìn lên một bục cao, hương trầm nghi ngút, sực nức mùi thơm, thấy Lý tiểu thơ, vẻ mặt thành kính, đang cùng mấy vị tăng già đàm đạo. Lương Sinh hậm hực đứng nhìn, giận mình từ xưa chẳng chịu thế phát quy y.
Một lát, tiểu thơ quay vào bàn lễ, Sinh ngại nàng vội đi nên bỗng nảy ra một ý. Lại gần biệt phòng bên cạnh, sẵn nghiên bút và hoa tiên để khách thập phương đề vịnh, Sinh bèn thảo phóng mấy câu:
Lá gió đầu xuân, đưa đẩy duyên trời hẹn ước,
Tiên hoa gài mộng, vấn vương đền Phật bâng khuâng
Động biếc, thoáng cười tiên nữ
Rêu xanh, ngẩn lối Lưu Thần
Mặt nước hồ in, xao động bốn mùa sóng gió
Bóng đêm hang thẳm long lanh một vẻ giai nhân.
Rồi bẻ cành hoa kẹp vào. Khi Lý tiểu thơ lễ xong, khoan thai xuống thềm, mọi người sợ hãi bật ra hai bên thì Sinh vội vã đi theo. Đến lúc nàng vừa lên kiệu, Sinh ném cành hoa lên chỗ nàng ngồi. Lính hầu thoáng thấy kêu lên:
- Có người ám hại tiểu thơ.
Lập tức hai ba, rồi chín, mười lưỡi gươm dài vung lên, lính hầu vây lấy Lương Sinh. Những người xem hội thất sắc lùi lại, dồn dập đẩy nhau kêu la náo động. Tiểu thơ ngồi trên, vén rèm nhìn xuống không nói một lời, vẻ mặt hết sức kiêu kỳ. Lương Sinh đã toan mở lời khống chế, nhưng lính xông vào trói chàng.
Đám đông có tiếng thì thào:
- Anh ta chỉ ném có một cành hoa thôi đấy.
- Bấy nhiêu cũng đủ héo cuộc đời rồi.
- Qua dinh Tổng trấn không lấy nón xuống là đã bay đầu, nói chi xúc phạm tiểu thơ vàng ngọc!
Lúc ấy Lương Sinh sực nhớ đã quên từ lâu mười môn võ bí truyền của nhà họ Lã.
Về đến nha môn, lính dẫn Lương Sinh nhốt vào trại giam, rồi tâu trình lên tổng trấn. Nằm trong bốn vách tường đá, Lương Sinh nghĩ cuộc đời bằng phẳng của mình bấy lâu mà lòng rầu rĩ không yên. Chắc là phen này không thể sống thoát, tiếng vang danh sĩ ngày nào bây giờ phải chịu hoen nhục vì không nén được tấm lòng bồng bột phút giây. Đang mơ màng về thế giới bên kia, chợt nghe tiếng người gọi dậy, lập tức được lính dẫn đến công đường. Tổng trấn ngồi giữa, vóc dạng phương phi, hàm én râu hùm, trên tay còn cầm tang vật là mảnh hoa tiên.
Sinh cúi đầu thi lễ, toan tìm lời kêu oan gỡ tội thì quan ra lệnh mở trói. Trước sự kinh hoàng của Sinh, quan bước xuống thềm, dắt Sinh vào trong, kéo ghế bảo ngồi. Sinh chối từ hai, ba lần không được. Quan nói:
- Ta thường ước ao được gặp một người tài đức nay biết người là danh sĩ nên thực hết lòng hâm mộ. Lính hầu sơ xuất phạm điều vô lễ vừa rồi, ta sẽ nghiêm trị. Gác Đằng thuận nẻo gió đưa, người hãy ở đây cùng ta hưởng mấy ngày xuân vui câu xướng họa, cho thỏa tình ta khao khát lâu nay.
Đoạn truyền đem rượu ngon thịt béo ra thết đãi nồng hậu. Lương Sinh tự thấy tài năng của mình thực đã bảo đảm cái mệnh vô cùng vững chắc, hết sức cởi mở tấm lòng, uống rượu say khướt từ sớm đến chiều, mỗi khi chập chờn thức tỉnh lại ngâm thơ sang sảng, tưởng như lúc nào sau rèm cũng có người đẹp nép nghe. Tổng trấn có vẻ đặc biệt kính trọng tài năng của Sinh, luôn luôn nhường lời Sinh thành ra Sinh phải độc xướng, độc họa, độc ngâm suốt ngày. Đôi lúc Sinh muốn hỏi thăm tiểu thơ định trao duyên nơi nào chưa, nhưng thấy Tổng trấn đãi mình như bậc thượng khách nên phải giữ ý làm thinh.
Độ vài hôm sau, quan tổ chức cuộc du xuân, đưa Sinh đi xem cảnh trí trong miền. Nơi nào quan cũng cho thấy kỳ công đại lực của quan tạo lập cho dân: kia là dòng suối quanh co quan khai thông để dân lấy nước cày cấy, nọ là đồng ruộng bao la trước kia toàn là rừng rậm hoang vu quan đã tốn công khai phá cho dân trồng trọt.
Ngồi trên kiệu cao, Sinh nhìn theo ngón tay quan trỏ phía xa xa, mơ hồ thấy suối, thấy đồng nhiều vẻ khác mầu mà miệng không ngừng tán tụng. Hơi men nồng nàn lòng Sinh chứa chan nhiệt tình đối với những bậc "dân chi phụ mẫu" mà xưa nay Sinh thường tỏ ý rẻ khinh.
Đến đâu quan cũng xin Sinh lưu bút để cho khắc vào bia đá, cột đồng, Sinh phóng bút thao thao bất tuyệt, hết lòng ca ngợi tài đức của quan. Mực thơm bút quý, lời lời châu ngọc, hàng hàng gấm thêu. Trước khi giã từ, Sinh còn lưu lại bài tán tổng kết công đức của quan để khắc ở chốn công đường và bài minh, ký để ghi tạc vào mấy cỗ hồng chung tại các tháp đền quy mô trong hạt. Quan ân cần tiễn chân Sinh ra khỏi nha môn, đưa tặng một cỗ ngựa bạch, mấy nén vàng, nhưng Sinh một mực chối từ không nhận để giữ vẹn lòng thanh khiết.
Giữa mùa xuân ấy, Sinh lâm bệnh nặng, nằm liệt suốt một tháng liền. Tuyết Hồng hết sức săn sóc thuốc thang, nhiều đêm không ngủ. Bây giờ Sinh có lòng mừng là nàng không biết làm thơ, nhưng Sinh ngày đêm khắc khoải vì không cầm được cây bút. Một ngày không viết được một câu nào, Sinh có cảm tưởng như mình không còn sống nữa. Ngoài nỗi bệnh tật giày vò, sinh còn bị nỗi băn khoăn sáng tạo hành hạ. Bệnh cũ như muốn tái phát, thần kinh rạo rực không yên, giấy ngủ chập chờn ác mộng. Mấy lần chống tay ngồi dậy nhưng lại bủn rủn nằm xuống, hơi thở nóng ran như lửa.
Một sớm đang nằm, nghe tiếng chim hoàng oanh hót ngoài vườn vụt tắt, thấy một tia nắng lọt qua khe cửa chợt tàn. Sinh bỗng hốt hoảng tưởng chừng mùa xuân bỏ mình mà đi, bèn gượng ngồi lên, xô mạnh cửa sổ. Mấy nụ hoa thắm cười duyên trước thềm, lá xanh tươi màu nhựa mới. Sinh gọi đem nghiên bút và tập hoa tiên. Vừa cầm bút lên, Sinh bỗng kinh ngạc: nghiên mực đỏ tươi sắc máu. Thử chấm bút vào, lăn tròn ngọn bút đưa lên, bỗng thấy nhỏ xuống từng giọt từng giọt thắm hồng như rỉ chảy từ tim. Khiếp đảm, Sinh ngồi sững sờ, tâm thần thác loạn. Cố viết đôi chữ lên giấy, nét chữ quánh lại, lợn cợn như vết huyết khô trên cát. Sinh vội buông bút, tưởng chừng bàn tay cũng thấm máu đầy. Đưa lên ngang mũi, mùi tanh khủng khiếp. Quệt tay vào áo; đau nhói trong người. Sinh nằm vật xuống, mê man bất tỉnh.
Sau mấy ngày, Sinh tỉnh dậy, lòng khao khát cầm bút. Nhưng nhớ hình ảnh vừa qua, tự nhiên đâm ra e ngại, Sinh cố tập trung thần lực, men đến án thư vừa cầm bút lại thấy lảng vảng sắc máu, không sao đủ can đảm vạch được nét bút nào. Sinh ném bút, hất giấy, vô cùng khiếp sợ tưởng như xôn xao chung quanh vô số hồn oan đòi mạng. Từ đó Sinh gầy rạc hẳn, liệu không sống thoát.
Người cậu của Sinh từ lâu đã vào trong núi Hoa Dương ở với đạo sĩ họ Trình, một hôm tạt về thăm nhà thấy cháu suy nhược rất là lo lắng. Sau khi nghe Sinh thuật hết những điều quái dị vừa qua, ông suy nghĩ hồi lâu, rồi nói:
- Ta từng bảo cháu ngòi bút không phải không có oan khiên. Lưỡi gươm tuy ác nhưng mà trách nhiệm rõ ràng lỗi lầm tác hại cũng trong giới hạn. Mượn sự huyễn hoặc của văn chương mà gây điều thiệt hại cho con người, tội ác của kẻ cầm bút xưa nay kể biết là bao, nhưng chẳng qua mờ mịt hư ảo nên không thấy rõ hay không muốn rõ mà thôi. Làm cho người gái lớn lên băn khoăn sầu muộn, làm cho trai trẻ đang hăng khinh bạc, hoài nghi, gợi cho người ta nghĩ vật dục mà quên ái tình, khêu cho người ta tiếc tài lợi mà xa đạo nghĩa, hoặc cười trên đau khổ của tha nhân, hát trên bi cảnh đồng loại, đem sự phù phiếm thay cho thực dụng, lấy việc thiển cận quên điều sâu xa, xuyên tạc chân lý, che lấp bần hàn, ca ngợi quyền lực, bỏ quên con người, văn chương há chẳng đã làm những điều vô đạo?
Tội ác văn chương xưa nay nếu đem phân tích biết đâu chẳng dồn thành ngàn dẫy Thiên Sơn? Thần tạng của cháu kinh động thất thường, nhưng mà bản chất huyền diệu có thể cảm ứng với cõi vô hình, chắc cháu làm điều tổn đức khá nặng nên máu oan mới đuổi theo như vậy. Hãy xem có lỡ hứng bút đi lệch đường chăng? Soát lại cho mau, soát lại cho mau, chớ để chầy ngày.
Lương Sinh nghe xong bồi hồi tấc dạ, trí tuệ xem như minh mẫn hơn nhiều. Cơn bệnh do đó lui được khá xa. Sinh đem mấy tập thi tuyển của mình đọc lại từng câu, dò lại từng chữ, thấy toàn là ý bướm tình hoa, phát triển cảm xúc mà xao nhãng trí tuệ, tán tụng thiên nhiên mà bỏ mất cảnh đời, trốn tránh thực tại, từ chối tương lai, nhưng nghĩ kỹ lại vẫn chưa dò được lối máu từ đâu. Bỗng sực nhớ thấy những bài phóng bút viết cho Tổng trấn, không ghi lại trong thi tuyển, tâm não trở nên bàng hoàng. Đồng thời bao nhiêu gương mặt hốc hác trong ngày hội chùa lại hiện lên rõ, mấy cánh đồng trơ trọi, những tiếng thì thầm hai bên kiệu hoa, vẻ người nhớn nhác sợ hãi, những đòn dây trói, mấy dãy nhà giam, lần lượt như sống lại trước mắt. Những cảnh ấy thực đã trái ngược với những bài tán, bài minh đã viết. Mồ hôi toát ra như tắm, Sinh đứng lên được, quyết định trở lại chốn cũ để tìm hiểu sự thực.
Sinh đến chỗ cũ vào một buổi chiều nắng vàng thê lương phủ trên cảnh vật tiêu điều, xơ xác. Qua khỏi dòng suối khô cạn, Sinh bước vào trong một thôn trang vắng vẻ, thưa thớt những mái tranh nghèo, không một bóng người thấp thoáng. Đến một gò cỏ úa héo chợt thấy một người nông phu ủ rũ trước nấm mộ, mới liu hiu mấy nén hương tàn. Sinh dừng bước, lại gần ngồi xuống một bên, khẽ hỏi:
- Bác khóc thương thân quyến nào vậy?
Người kia ngước lên không nói, ngắm nhìn lớp bụi đường trường bạc thếch trên quần áo của Sinh, dịu đôi mắt xuống:
- Người nằm dưới mộ không phải bà con quen thuộc của tôi.
Sinh nghĩ: "Chẳng nhẽ người này cũng là một kẻ thi nhân khóc thương cho kiếp hồng nhan bạc mệnh nào chăng". Chưa kịp dò ý, người kia chợt hỏi, ra vẻ hoài nghi:
- Ông từ đâu mà đến đây:
- Tôi ở chốn xa, nhân bước đường phiêu lưu ghé tạt qua thôi. Buồn thấy miền này có vẻ tiêu điều hơn các nơi khác.
Người nông phu bỗng long lanh đôi mắt như không dằn được tấm lòng dồn nén, bật lên những tiếng căm hờn:
- Nói hết cho muôn ngàn khách qua đường cũng chưa hả được dạ này. Ví dù phải chết ngày nay, thân này chẳng tiếc, miễn sao bộc bạch cho được sự thật uất hận từ lâu. Đã bao năm rồi, sống dưới nanh vuốt của tên Thống trấn họ Lý, chính sự độc dữ hơn hùm beo, đồng ruộng gầy khô, dân làng đói rách. Đầu xuân này có Khâm sai đi về, cụ Thôn trưởng của chúng tôi, mặc dù già yếu cũng quyết vì dân làm bản trần tình, can đầu ngựa níu bánh xe mà tỏ bày sự thực. Thế nhưng Khâm sai đi khắp mọi nơi, chỗ nào cũng thấy bia đá cột đồng đầy lời hoa mỹ tán dương công đức Tổng trấn của thằng danh sĩ chết khốn nào đó nên ném bản trần tình, không xét, bảo rằng: "Muôn ngàn lời nói của lũ dân đen vô học đâu bằng mấy vần từ điệu cao xa của kẻ danh nho. Danh sĩ bao giờ cũng biết tự trọng. Tổng trấn đã được hạng ấy tôn xưng, hẳn không phải bất tài". Thế đã thôi đâu, Khâm sai đi rồi, Tổng trấn phái sai nha về tróc nã những người đã đầu đơn tố cáo nó. Bao người phải chết vì nỗi cực hình thảm khốc, vợ góa con côi, một trời nước mắt, ruộng đồng từ đấy đành để nuôi loài cỏ dại mà thôi.
Sinh chết điếng cả người, giây lát mới gượng gạo hỏi:
- Chẳng hay bác có biết... danh sĩ ấy tên gì không?
Người nông phu trợn trừng cặp mắt, gào lên:
- Làm gì mà biết! Mà biết làm gì? Những hạng hiếu lợi, hiếu danh, trốn trong từ chương để tiếp sức cho kẻ ác mà cứ tưởng mình thanh cao, hạng ấy thì đâu chẳng có? Dân làng đây, ai cũng nguyền rủa hắn, mà hắn nào có biết đâu? Nghĩ thương cho cụ Trưởng tôi, mấy lần đứng ra chịu nhận hết tội để cứu bao người, mà bọn chúng chẳng chịu tha, cứ việc tàn sát thẳng tay, lôi đi lớp này rồi đến lớp khác, nên khi bị dẫn qua đây cụ tự móc họng cho trào máu ra mà chết để khỏi bị người đầy đọa. Trước khi nhắm mắt, cụ còn gượng nói: "Được chết trên cánh đồng đã đẫm mồ hôi của ta, của bà con xóm làng ta, thế là quý rồi. Chôn ta ở đây, cho ta gần gũi với các người". Hơi thở gần tàn, cụ nói tiếp: "Tội ác là ở lũ vua quan. Tên danh sĩ kia chỉ là cái cớ để chúng vun vào mà che lấp sự thực. Đừng oán hờn tên danh sĩ. Đáng thương cho nó, đáng thương cho nó!".
Người nông phu dừng lại, nghẹn ngào rồi tiếp:
- Nhưng bao người khổ ở đây, bao kẻ chết nơi kia, nghĩ còn đáng thương đáng xót gấp trăm ngàn lần!
Đoạn gục đầu xuống mồ, khóc than thảm thiết. Sinh cũng sụp xuống, hòa tiếng khóc theo. Bóng đêm xóa nhòa, gió lạnh như từ cõi âm thổi về rung động bờ lau bụi cỏ. Sinh tưởng như theo cơn gió oan hồn của người đã khuất hiện về chứng kiến cho những giọt lệ chảy ra từ một tấm lòng hối hận chân thành.
Vũ Hạnh