THẦN DƯỢC CỨU MỆNH
( Bài đăng trên báo Long An - thứ năm từ 21-4 đến 24-4 1997,
năm thứ 34, số 29/97 (1509)
LTS: Ông Nguyễn An Định, cộng tác viên của Báo Long An, hiện nghỉ hưu tại TP.HCM. Với tấm lòng thiết tha với vốn quý y học cổ truyền, lại thêm mối cảm tình với nghề y trong gia tộc (ông là trưởng nam của nhà ái quốc Nguyễn An Ninh), từng có lúc hành nghề y dược. Vừa qua ông có bài viết sau đây; chúng tôi xin giới thiệu, như một tư liệu để bạn đọc tham khảo. Tác giả và tòa soạn báo rất mong nhận được ý kiến đánh giá của các nhà chuyên môn về nội dung y dược học nêu trong bài viết.
THẦN DƯỢC CỨU MỆNH 1
Có quyển sách thuốc Nam, in đầu thế kỷ 20 mang tên "Thần dược cứu mệnh", giới thiệu một bài thuốc thần "cứu người sau bốn khắc". Trong quyển "Hai trăm bài thuốc quý" của ông Lê Văn Tĩnh, Sa Đéc, in khoảng năm 1940, cũng có một bài giống y như vậy, đề là "chủ trị lâm ban, ôn dịch và các bệnh nan y, công hiệu như thần, bệnh lui sau 60 phút".
Quyển "Thần dược cứu mệnh" mở đầu bằng câu "Con người dẫm lên thuốc thần mà không biết, nên vẫn chết". Vị thuốc thần đó chính là vị thuốc có tên "Địa long" - con rồng trong đất. Ở Trung Quốc và Việt Nam, vị Địa long có mặt trong nhiều thang thuốc trị bệnh hiểm nghèo hoặc để cấp cứu người sắp chết. Nhân dân Hàn Quốc có thói quen ăn cháo Địa long trứơc khi ngủ, để tẩm bổ và để trị bá bệnh. Đêm đêm, cháo Địa long có bán tại các thị trấn và ngay cả ở thủ đô. Gần đây trong thời gian Thế vận hội Olempic Seoul, vì ngại người nước ngoài không hiểu vị thuốc quý mà coi thường nhân dân Nam Hàn, nên Chính phủ đã cấm bán cháo Đia long trong thời gian Thế vận hội. Vậy "Địa long" là gì? Nó chính là con trùn đất, loại có màu sẫm đen, ánh xanh ở cổ, to bằng đầu đũa hoặc to hơn, khi đào trúng nó, nó không giãy giụa, co thành một nùi tròn nằm im.
"Thần dược cứu mệnh" phân tích tính dược của trùn đất, cho rằng nó có khả năng: làm dai mạch máu và dây thần kinh, nối liền các chỗ dây thần kinh bị dứt, các mạch mạu bị nứt rách, hồi phục sự sống cho các tế bào đã bị hoại tử, tách ra và đào thải các tế bào đã chết thối, hết phương phục hồi, vực dậy vô cùng nhanh chóng sức chống trả bệnh tật của con người ( ngày nay gọi là vực dậy sức miễn dịch của cơ thể). Cho nên, chỉ sau sáu mươi phút bệnh phải lui, mọi hiện tượng lâm sàng đều biến mất. Do đó Địa long được dùng và công hiệu rất nhanh chóng trong các trường hợp: cửu khiếu xuất huyết, não bộ xuất huyết, ngũ tạng, lục phủ xuất huyết, phù thận, phù gan, phù toàn thân, phù tim, đột ngột phát điên không rõ nguyên do có sốt hoặc không có sốt, bí đại tiểu tiện, bí trung tiện, bụng báng trướng nước, "mắc đằng dưới" (bạch đới nặng, ngày đêm đáy quần ướt sũng hôi hám, người ốm tong, xanh xao...)
Ở hai quyển sách, hai bài thuốc giống nhau, có một nét đặc biệt nổi bật "bênh lui sáu mươi phút sau khi uống thuốc", mà lại chuyên trị những ca rất khó trị. Ví vậy nói "thần dược cứu mệnh" thật không ngoa chút nào.
Lúc nhỏ tôi rất mê ngành y dược. Các sách chữ Pháp dành cho các y bác sĩ nghiên cứu kỹ về nhi khoa, sản khoa, đa khoa, giải phẫu... đọc rất khó hiểu và rất đắt tiền, tôi cũng ráng mua để nghiên cứu. Hai quyển sách thuốc : "thần dược cứu mệnh" và "200 bài thuốc quý" tôi coi như vàng ngọc. Đi kháng chiến, hai quyển đó nằm dưới đáy ba lô tôi, theo tôi suốt chín năm, giúp tôi trị bệnh cứu người. Chỉ riêng năm 1953 và nửa đầu năm 1954, tôi đã cứu gần trăm người, coi như giật lại từ tay thần chết.
Trong cuộc giành giật đó, có lần tôi đã chạm trán cả với một vị danh y, mà trước đó các nhà điền chủ lớn ở Cần Thơ, Rạch Giá, Sóc Trăng, Bạc Liêu thường đưa xe hơi hoặc ghe máy đến tận nhà để rước ông. Năm đó ở vùng Giáp bốn tỉnh này có một đợt dịch bệnh, phần lớn là các cháu nhỏ từ 9 -10 tuổi đến 15 -17 tuổi, đa số là gái, các cháu trai và người lớn ít bị hơn. Hiện tượng là xuất huyết nội tạng, xuất huyết cửu khiếu, xuất huyết dưới da (nổi vệt đỏ bầm tím, xanh đen khắp người) hôn mê bất tỉnh nằm im như xác chết suốt bảy ngày, có khi lâu hơn, mạch đã lạc không bắt được, hơi thở rật yếu khó nhận thấy, da tái xanh, tay chân lạnh ngắt (nhưng vẫn còn mềm dịu, nếu cứng đơ thì đã bị đem chôn rồi)
Lần đó cháu gái hôn mê đã 8 ngày, mình đầy các vệt tím. Gia đình đã rước được vị danh y nổi tiếng nói trên, nhưng ông đến xong lại từ chối không trị bệnh cho cháu, chỉ vì trong số 30-40 vệt bầm đen trên da cháu, có một vệt đen kịt to bằng đầu ngón tay, nằm đúng giữa hai đầu lông mày. Ông cho đó là điềm báo không thể cứu sống. Sợ mất uy tín thầy, nên ông không hốt thuốc.
Tình cờ tôi đến, thấy má cháu đang quỳ lạy van xin ông cứu cháu, mà ông một mực chối từ. Nghe mạch tại tim, thấy còn tiếng thoi thóp rất yếu, tôi nói:
- Thưa thầy, thầy quyết bỏ, thì con xin phép thầy cho con cứu cháu.
- Em mà cứu được hả? Có thấy vệt đen ngay huyệt Tam tinh không mà em liều mạng vậy? Tôi hỏi em, sau khi em đổ thuốc thì bao lâu cháu tỉnh lại? Em nói được, tôi sẽ để cho em đổ thuốc.
- Thưa thầy bài thuốc của con, cháu uống xong chỉ độ 63-65 phút sau cháu sẽ mở mắt.
Thầy trợn tròn mắt, đỏ mặt tía tai, lườm tôi rồi quát:
- Chủ nhà đâu, đem cho tôi cái đồng hồ bàn.
Ông dằn mạnh đồng hồ lên bàn, nói:
- Được rồi! Có đồng hồ đó. Tôi ở lại coi cháu nhỏ tỉnh dậy.
Có kinh nghiệm cả trăm lần rồi, tôi rất tin ở bài thuốc. Tôi đi nấu rồi cạy răng đổ cho cháu uống. Quả nhiên tới phút 63 cháu mở mắt, đến phút thư 65 cháu đòi đỡ ngồi dậy, đòi uống nước ăn cháo, đòi cho đi tiêu tiểu. Tiếng cháu rất yếu, hai mắt cháu toàn tròng trắng, không thấy tí tròng đen nào. Nhưng tay chân cháu đã ấm, da hết tái xanh. Rõ ràng cháu đã sống lại.
Ông thầy thuốc với hai tay lên đầu, lột khăn đóng xuống chắp tay trước ngực nói:
- Lúc nãy em kêu tôi bằng thầy, bây giờ tôi phải lạy em ba lạy mà kêu em bằng thầy. Xin thầy thông cảm cho, vì thầy trẻ quá, nhỏ hơn con tôi nhiều, do đó tôi không quỳ lạy sợ tổn thọ cho thầy. Tôi chỉ xin xá đủ ba xá thay cho ba lạy.
Nói xong ông trịnh trọng xá tôi ba xá, đầu cúi sâu thật nghiêm túc. Sau đó ông xin tôi bài thuốc.
Năm đó, ngoài các hiện tượng hôn mê sâu nhiều ngày, xuật huyết dưới da, xuất huyết cửu khiếu, xuất huyết nội tạng, xuất huyết não, còn có nhiều ca bệnh khác. Bà nọ phát điên đã 4-5 ngày. Phải vất vả lắm mới đổ được thuốc. Cũng hơn 60 phút bà khỏi hẳn. Ông kia hơn 90 tuổi, cảm gió nằm im sùi bọt mép, mắt trật thị, tay chân lạnh ngắt. Lấy móc tai đâm dưới móng mười ngón tay mút không ra tí máu, máu đã đông. Khi tôi cạy răng đổ thuốc, còn có người nhà nói sau lưng tôi:
- Thuốc hay thì trị được bệnh, chứ cãi làm sao được mệnh của trời. Ông đã trên chín mươi tuổi còn gì. Cứu sao được mà cứu?
Vậy mà sau khi đổ thuốc 65 phút, ông vẫn sống, cãi cả mệnh trời thật!
THẦN DƯỢC CỨU MỆNH 2
Cuối năm 1969, ở Hà Nội có đợt dịch bệnh gọi là sốt xuất huyết, được xác định xuất hiện lần đầu tiên ở nước ta. Các cháu nhỏ chết la liệt, tại bệnh viện lớn có ngày 15-17 cháu chết. Nghe nói có dịch bệnh gây chết tràn lan, tôi đến các bệnh viện xem. Thấy các dạng bệnh giống y như tôi đã từng gặp, tôi viết ngay một bài, nói rõ về bệnh và phổ biến bài thuốc "Thần dược cứu mệnh", gởi lên Bộ trưởng Bộ Y tế lúc bấy giờ là bác sĩ Nguyễn Văn Hưởng. Bác gởi phổ biến đi các tỉnh, đồng thời gởi đăng ngay trên báo "Hà Nội mới". Trong bài viết của tôi có câu:
"Đề nghị dùng thuốc này cho các ca bệnh nặng nhất. Bảo đảm 100% sẽ không có tử vong". Bác sĩ Hưởng đã xóa bỏ đoạn "... Bảo đảm 100%...". Đọc báo thấy mất đoạn đó, tôi chạy ngay đến nhà bác Bộ trưởng. Tôi nói:
- Thưa bác, bác bỏ mất đoạn quan trọng nhất trong bài của cháu. Vì cháu nghĩ, vị chủ của bài thuốc nầy là con trùn, nên nó dễ gây ngại dùng. Bắt con trùn còn gớm, làm thuốc càng ớn hơn, vì vậy để câu đó, người ta tin chắc chắn nó sẽ cứu sống người bệnh, do đó người ta ráng không gớm, ráng bằng mọi giá làm thuốc để cứu bệnh nhân.
Bác Hưởng nói:
- Giả dụ người bệnh đến giờ phải chết, 5-10 phút nữa sẽ chết, mà thuốc của cháu lại cần đến 60 phút mới cứu sống. Vậy làm sao bảo đảm 100% được? Thận trọng vẫn hơn cháu à. Trong ngành y không nên nói câu đó.
- Thưa bác, nhưng kinh nghiệm thực tế của cháu đã cho thấy rõ, thuốc có uống khỏi cổ là đã chắc sẽ sống rồi.
Bác Hưởng không bằng lòng nên nói:
- Tôi nhắc lại, ngành y không cho phép nói bảo đảm cứu sống 100%.
Bác cháu tôi tranh luận như vậy. Nhưng vài tháng sau, đến Hội nghị tổng kết dịch sốt xuất huyết toàn miền Bắc, do Sở Y tế Hà Nội tổ chức, tôi nhận được thư mời của đồng chí Giám đốc Sở Y tế Hà Nội. Trong giấy mời đồng chí viết:
- Trong cuộc chống dịch sốt xuất huyết vừa qua, Bộ có sử dụng bốn bài thuốc Nam do nhân dân đóng góp. Nói chung, thuốc Nam trị bệnh này đạt hiệu quả rõ ràng và nhanh chóng hơn Tây y. Tuy nhiên, trong các bệnh nhân dùng ba bài thuốc kia, vẫn có những ca tử vong. Duy chỉ có bài "trùn đất" của đồng chí là cứu sống 100%, không có ca tử vong nào. Mặc dù bài thuốc đó đã dùng cho tất cả các bệnh nhân nặng nhất. Vì vậy, mời đồng chí dự hội nghị tổng kết. Đặc biệt mời đồng chí báo cáo với hội nghị một số vấn đề mà chúng tôi muốn biết. Ví dụ: tại sao đồng chí biết dùng năng lượng của dòng điện 12 von để gọi thức thần kinh trung ương của bệnh nhân hôn mê sâu. Mà lại nói được: sau khi nạp điện lần thứ năm thì bệnh nhân tỉnh dậy?
- Còn một số vấn đề khác, chúng tôi cũng xin đồng chí cho biết rõ hơn. Ví dụ vấn đề 63-65 phút, có trường hợp nào khác đi, kéo dài hơn không? Ngoài bệnh sốt xuất huyết, thuốc còn trị được các bệnh nào khác?
Cuộc họp đó có khoảng hơn 200 người đến dự, gồm Hội đồng Kỹ thuật của Bộ, các giám đốc bệnh viện quận và huyện ngoại thành, các lương y và sư sãi tham gia trị bệnh cứu người. Báo cáo của tôi trả lời các câu hỏi của đồng chí giám đốc sở cùng nhiều câu hỏi khác, đã được hội nghị vỗ tay hoan hô hồi lâu.
Sau hôi nghị đó, bác Hưởng mời tôi tới nhà bác và gợi ý:
- Tôi muốn đề nghị với Bộ Văn hóa biệt phái cháu về Viện Đông y trong thời gian 3-5 năm. Ỡ Viện, tôi sẽ cử cháu phụ trách một tổ nghiên cứu gồm nhiều phó tiến sĩ y dược. Cháu cùng các vị đó sẽ bào chế, biến bài thuốc của cháu thành thuốc chai để uống, sau đó tiến tới biến thuốc thành dạng nước trong cho vào ampoule để chích. Chế được thuốc tiêm, ta sẽ đưa đi điều trị cho bảy - tám chục bệnh nhân. Nếu thời gian chấm dứt các hiện tượng làm sáng tỏ vấn đề là 63-65 phút như thuốc thang, coi như ta thành công. Chừng đó bác sẽ cho sản xuất đại trà, bán rộng ra nước ngoài. Bác sẽ để tên thuốc là AV, ngầm hiểu là antivirus. Vì hiện nay trên thế giới người ta cho là "chưa có thuốc đặc hiệu trị siêu vi trùng", cho nên ta chưa dám đề rõ nguyên chữ antivirus. Khi nào thiên hạ dùng nhiều và xác định thuốc này diệt siêu vi trùng rất có kết quả, lúc đó tự họ sẽ cho thuốc của ta là antivirus.
Hồi đó tôi mới lấy xong bằng đại hoc nghệ thuật từ nước ngoài, mới về nước, nên còn mê công tác văn học nghệ thuật. Chưa biết say mê ngành y, cho nên đã từ chối lời mời của bác Bộ trưởng Bô Y tế, kiêm Viện trưởng Viện Đông y. Tôi nói:
- Thưa bác, cháu làm tổ trưởng tổ nghiên cứu thì làm sao các vị phó tiến sĩ y dược nghe theo lời cháu. Đã lập một tổ chức gồm toàn các vị có chuyên môn cao, sao bác không ra lệnh cho các vị chịu trách nhiệm bào chế cho thành công? Làm như vậy có phải tốt hơn không?
- Cháu ơi, vấn đề phức tạp lắm. Phải nói thật, mặc dù Đảng bảo phải coi trọng Đông y, nhưng những người có học vị cao, đã có mấy người thật sự tin tưởng Đông y! Hơn nữa, bài thuốc của cháu gồm bốn vị, thì con trùn đất dễ bị người ta gớm. Còn ba vị kia: đậu đen, đậu xanh, rau bù ngót, rất dễ làm cho người ta coi thường. Do hai đặc điểm đó nên bài thuốc của cháu có thể khiến người ta thiếu quyết tâm nghiên cứu thật đến nơi đến chốn. Chỉ có cháu, người đã có kinh nghiệm thực tế, đã từng cứu sống hàng trăm người, giành giật họ lại từ tay thần chết, thì cháu mới có đủ quyết tâm và lòng tin, để đưa cuộc nghiên cứu đến thành công. Bác tin cháu, cử cháu làm, bác phải có trách nhiệm theo dõi sát và buộc mọi người phải làm đúng theo lời cháu. Với bài thuốc đó, bác tin là thời gian hoàn thành công trình sẽ rất ngắn. Bởi vì, đặc điểm 65 phút của nó rất đặc biệt. Nó xác định xác bước nghiên cứu của ta bằng cách xem giờ. Bác tin rằng có thể chỉ một năm, ta sẽ hoàn thành công trình này.
Bác Bộ trưởng rất tin ở bài thuốc, tin ở tôi, từng lời bác mang nhiều ý nghĩa khích lệ, động viên tôi dũng cảm nhận trách nhiệm lớn. Tuy nhiên, tôi vẫn ngại, cái lo ngại tự nhiên của một người mặc dù có kinh nghiệm thực tế không phải ít, có đọc sách trình độ cao, nhưng chưa được học có hệ thống lý luận nghiệp vụ chính quy trường lớp.
THẦN DƯỢC CỨU MỆNH 3
Đã hai lần tôi bị chất vấn đến tháo cả mồ hôi hột, cho nên tôi phải sợ. Tuy tôi trả lời trót lọt ở cả hai lần, lại được khen, được hoan hô. Nhưng điều đó không làm tôi hết sợ được.
Lần thứ nhất, cháu Chín 15 tuổi, ở 105 Hàng Bột – Hà Nội bị hôn mê sâu đã 9 ngày. Từ bệnh viện Đống Đa, cháu đượcchuyển qua Saint Paul, rồi bệnh viện Cu Ba. Bữa đó bác sĩ bệnh viện Cuba ra trạm y tế. Trạm hỏi, bác sĩ Cuba nói: “Cháu Chín ở phố này, chúng tôi coi như đã chết 5 ngày rồi. hiện nay hàng ngày tiêm 2 triệu đơn vị kháng sinh và vô nước biển. Nhưng không hy vọng sống. Đợi tay cháu cứng đơ thì đưa chôn thôi”.
Nhà cháu cách con hẻm 200m là đến trạm y tế khu phố. Tiếng hai bác sĩ nói, má cháu ngồi mái trước nhà nghe rõ hết nên 6 giờ tối bà cho con trai đi tìm tôi. Bấy giờ tôi vào bệnh viện gặp Giám đốc trực đề nghị phối hợp Đông y. Bị từ chối, tôi quay về nhà cháu nấu thuốc đưa má cháu bảo đem vô lén đổ. Kém mười lăm 8 giờ đổ thuốc, thì 9 giờ kém 10 cháu tỉnh. 9 giờ, tất cả người nhà phải ra khỏi bệnh viện. Sáng sớm tôi vào thấy cháu đang ngồi ăn cháo. Người nhà quây tròn quanh giường. Cổ cháu niểng: đầu cúi, lắc lắc, hai mắt toàn tròng trắng, miệng méo, tay quều quào. Tôi bảo đưa cháu về để tôi trị tiếp. Mẹ cháu nói:
- Anh ơi, cháu quều quào như đứa có tật vậy, hai mắt không có tròng đen, đưa về nhà rồi cháu có khỏi không? Mọi cái có trở lại bình thường không?
Tôi bảo: bà cứ đưa cháu về, vài hôm cháu sẽ khỏi hẳn.
Gia đình xin đưa cháu về, bác sĩ chưa tin cháu đã tỉnh. Khi thấy cháu như vậy, bác sĩ càng không muốn cho về. Tôi phải cam đoan trị dứt các di chứng, bác sĩ mới cho về.
Vừa về đến nhà thì chị Lê – giám đốc bệnh viện quận Đống Đa tới ngay, có lẽ bệnh viện Cuba báo cho chị biết. Chị Lê nhờ tôi giúp bệnh viện Đống Đa. Cho uống thang thứ hai thì tay chân, đầu cổ cháu gần như bình thường. TRòng đen mắt cháu đã xuống nhưng lại nằm ở hai khóe mắt bên ngoài. Qua thang thứ ba, tròng đen mới trở lại vị trí của nó.
Chị Lê hàng ngày đến theo dõi tình hình. Qua ngày thứ tư, chị mời tôi cùng đi lên Bộ gặp Bộ trưởng. Bác Hưởng hỏi tôi rất tỉ mỉ về thể trạng của cháu trong thờigian tới, khoảng dăm, sáu tháng sẽ ra sao? Về lâu dài tim, óc có vấn đề gì không? Có bị di chứng không? Sau đó bác bảo tôi cố gắng thường xuyên đến giúp bệnh viện quận nhà. Bác nói với chị Lê:
- Những điều tôi hỏi và đồng chí Định trả lời, cô đã nghe rõ hết. Vậy từ nay trở đi lúc nào đồng chí Định đến bệnh viện, mà có góp ý gì về phương pháp trị bệnh, về sự chỉ định thuốc hoặc đồng chí đề nghị gì thì cô nên nghe theo.
Cháu Chín về nhà được tuần thì xảy ra sự cố. Dãy nhà phía sau nhà Chín, ông chú nhà ở ngay cửa sổ chỗ Chín nằm: ổng đi phố làm mất chìa khóa. Về không mở được cửa, ông đi mướn búa tạ về đập. Vì ổ khóa và khoen cửa của ông loại to nhất nên ông phải đập đến cả chục cái mới tới được ổ khóa. Từ chỗ ổ khóa nhà ổng đến chỗ Chín nằm chỉ cách có 2 m. Tiếng đập khóa rầm rầm làm Chín hốt hoảng ngất lịm. Người khỏe mạnh còn chịu không nổi, huống hồ người từ cõi chết mới trở về, tim óc còn rất yếu.
Gia đình đưa Chín trở vào bệnh viện Đống Đa và báo cho tôi biết. Tôi vào viện thấy đang cho tiêm Adrenalin. Chị Lê hỏi:
Ta lại cho uống thuốc nam hả anh?
Chị à, bệnh cháu đã khỏi. Siêu vi trùng không còn. Lần này cháu hôn mê sâu do bị cú sốc tim và thần kinh. Chị không nên cho cháu dùng thuốc, nhất là những thứ có nhiều độc tố như Adrenalin. Chị nên dùng các chất phóng xạ như tia cực tím, hồng ngoại hay laze, nguyên tử đều được. Ta dùng năng lượng phóng xạ mà gọi thức thần kinh trung ương. Cháu hôn mê lần nầy do quán tính của cuộc hôn mê trước, nó kéo thần kinh trung ương của cháu quay trở lại tình trạng liệt trước kia mà thôi. Do vậy, ta chỉ cần gọi nó tỉnh dậy, hoạt động trở lại, không cần thuốc.
Chị Lê đưa cháu sang bệnh viện Bạch Mai, để nhờ phóng xạ trị liệu. Lúc đó các máy phóng xạ đều đưa sơ tán về nông thôn hết, nên chị Lê lại gọi tôi đến. Tôi nói:
- Nếu không có máy nào hết, thì chị tìm mua cái manheto xe hơi, bắt hai cực điện vào hai trái tai cháu, rồi lắc đầu ma-nhê-tô mà nạp điện. Điện ma-nhê-tô cũng giật khá mạnh, có thể gọi tỉnh. Nhưng điện ma-nhê-tô chỉ có 12 vôn, không thể giật chết. Dòng điện trên 40 vôn mới có thể giật chết người.
Chị Lê hỏi:
- Nạp điện mấy lần, mỗi lần bao lâu?
Tôi nói:
- Chị cứ cho gật gật cái đầu ma-nhê-tô năm bảy cái một lần. Cách sáu bảy giờ sau nạp một lần nữa. Có thể sau năm lần nạp điện cháu sẽ tỉnh.
Quả nhiên sau năm lần nạp điện cháu tỉnh lại, sau đó khỏi bệnh. Một năm sau gặp lại Chín, tôi biết cháu đã bỏ học, đi làm cô mẫu giáo. Mười sáu tuổi mà cháu cao hơn mét sáu, nặng gần sáu mươi kí, rất hồng hào khỏe mạnh.
Về thời gian bệnh lui sau 65 phút, tôi xin nói rõ. Có những trường hợp đặc biệt, như bệnh bụng báng nước , hậu quả của bệnh viêm gan siêu vi (mỗi ngày có thể lấy từ ổ bụng cả 18 – 20 lít nước) và phù toàn thân hậu quả của phù thận nhiễm mỡ, thời gian lui bệnh có thể lâu hơn, tức vài ngày sau mới khỏi hẳn. Tuy vậy đến phút 65 ấy, trong người bệnh vẫn có sự thay đổi lớn, báo hiệu rõ nét bệnh bắt đầu lui.
Ví dụ chuyện anh chàng thổi kèn đồng trompette của Đoàn ca múc Thái Ly. Đồng chí đó bị phù thận nhiễm mỡ từ nhiều năm. Khi đoàn ca múa quân giải phóng của Thái Ly ra Hà Nội để đi nước ngoài. Hôm đó chỉ còn 4 – 5 ngày nữa là lên đường bỗng đột ngột đồng chí ấy bị phát phù toàn thân. Mình mẩy, tay chân, mặt mũi phồng tròn đến căng da, cứ y như người được bơm hơi. Bác sĩ đành buộc đồng chí ở lại và dĩ nhiên cả đoàn phải ở lại. Vì văn công quân đội mà thiếu cây kèn xung trận thì không thể được, mượn người khác thì bao giờ mới tập xong các tiết mục? Đồng chí bèn tìm đến nhà tôi, nói như mếu, năn nỉ tôi tiếp cứu. Tôi làm thuốc đưa cho. Cầm thuốc, đồng chí mừng quá vội cáo lui, tôi dặn:
- Uống xong 65 phút có sự thay đổi trong người. Cho nên có cảm giác gì lạ em cứ bình tĩnh. Đó là hiện tượng bệnh lui, không có gì mà sợ.
Sáng sớm hôm sau, mới tờ mờ sáng anh chàng mò đến, báo tin khỏi bệnh đã được bác sĩ của đoàn cho đi nướ ngoài. Người đồng chí ốm nhom, ngó chỉ bằng phân nửa hôm qua. Đồng chí nói:
- Uống xong hơn tiếng người em bỗng nghe rần rần, y như có hàng triệu con kiến đang bò trong xương trong máu. Em sợ quá nhưng nhớ lời anh dặn, em ráng bình tĩnh. Từ đó tới sáng em đi tiểu tiện hơn chục lần, khát nước uống nước hoài. Đến sáng thì hết phù. Bác sĩ phải kêu trời sao em khỏi bệnh lẹ vậy. Nếu vì em mà cả đoàn bị ách tắc lại, kế hoạch đã bố trí với nước ngoài bị xáo trộn hết, chắc là em phải rất khổ tâm.
Nói chung “thần dược” có đặc điểm 65 phút thật kỳ lạ. Đang hôn mê cả chục ngày vụt mở mắt, đòi ngồi, đòi ăn uống, đòi tiêu tiểu. Đang điên bỗng tỉnh như người thường. Đang bí tiểu tiện thì đi được. Bí cả chục ngày bỗng tiểu loãng. Ung thư gan, ruột bệnh viện bỏ chết cho về, bỗng xổ ra hàng chậu nước đen, thối như cả một con bò chết sình để trong nhà. Tai biến mạch máu não cả chục ngày cũng tỉnh dậy, nói cười được.
Bây giờ, xin trở lại câu chuyện cháu Chín. Vì cháu ngất lần thứ hai, và vì tôi không chờ bệnh viện Đống Đa dùng thuốc, lại chỉ định dùng dòng điện 12 vôn gọi cháu tỉnh dậy, cho nên tôi bị sát hạch lần thứ hai, không phải trước Bộ trưởng Bộ Y tế mà là trước mặt hơn hai trăm vị có chuyên môn cao của hội đồng kĩ thuật của Bộ. Do đó khiến tôi rất sợ, cho nên đã từ chối cơ hội ngàn năm có một bác Bộ trưởng đã dành cho tôi, để tôi có đóng góp đáng kể cho đồng bào và cho nhân loại. Muốn lưu niệm sự kiện đó, năm 1973 và 1978, khi sanh hai con trai, tôi đã đặt tên các cháu là An Vinh và An Vịnh. Đó là hình ảnh hai chữ AV mà bác Ba Hường, Bộ trưởng dự định đặt tên cho bài thuốc của tôi, nếu nó được chế thành công dạng thuốc tiêm.
THẦN DƯỢC CỨU MỆNH 4
Bỏ mất cơ hội đó, tôi cứ tiếc mãi. Suốt 27 năm qua, cứ mỗi lần đọc báo, xem đài, nghe thấy tin dịch bệnh vẫn hoành hành, các cháu vẫn chết. Vào bệnh viện thấy các cháu nhỏ hôn mê sâu, nằm im như xác chết xanh lè, là tôi không sao cầm được nước mắt. Có lần đang ăn cơm mà tôi phải buông đũa rồi khóc nức nở như trẻ nhỏ. Một lần, kiềm không được lòng mình, tôi đã la lên: Trời ơi! Thuốc đây! Có thuốc đây, tại sao các cháu vẫn chết, hỡi trời?
Gần 30 năm đã trôi qua, mà tôi cứ tự trách mình, tự dằn vặt mãi. Cứ mãi cho rằng do tôi, năm đó tôi đã thiếu trách nhiệm, đã thiếu dũng cảm mà nên. Khổ nỗi ở nước ta, nhiều người vẫn còn gớm con trùn cho nên bài thuốc vẫn không được dùng rộng rãi?
Cuối cùng tôi quyết phải cố gắng viết, đưa vấn đề này lên mặt báo, để bài "Thần dược cứu mệnh" đến tận tay đồng bào, nhất là bà con ở các vùng xa xôi hẻo lánh, đường đi tới bệnh viện có khó khăn, người ta buộc lòng phải tự làm để cứu mạng người thân. Nếu có hàng trăm, hàng ngàn người được cứu sống, thì bài thuốc này sẽ được khẳng định.
Hoặc giả, trong cả triệu nhà chuyên môn, nhà nghiên cứu sẽ có những người tin tưởng nó, dùng nó để trị bệnh, dùng nó để chế thuốc tiêm, tiện dùng hơn, hiệu quả hơn.
Nếu thật sự có những vị như thế, trong nước như ngoài nước thì khi các vị cần tôi hợp tác, tôi sẽ luôn luôn sẵn sàng làm bất cứ việc gì, đi bất cứ nơi đâu.
Bài thuốc gồm 3 vị : Trùn đất, đậu đen, bù ngót. Trong quá trình trị bệnh cứu người, tôi có gia thêm vị thứ tư là đậu xanh. Vì tôi nghĩ: đào trùn có khi ở gốc chuối, có thể có những chai lọ hóa chất, hoặc trùn đào tại các cây có độc như xương rồng, sầu đâu, chùm ruột, ít nhiều bị nhiễm độc, sẽ có đậu xanh giải độc.
Từ khi tôi thêm vị đậu xanh, năm 1954 đến nay, thuốc vẫn đẩy lùi bệnh sau 65 phút, y như thang gốc. Nghĩa là hầu hết các trường hợp cứu bệnh tôi kể trên, thuốc đều có 4 vị, tức có thêm đậu xanh.
Bài thuốc như sau:
1/Địa long 50g mỗi thang, tương đương 50 con trùn tươi(Xin mách : ở khu chợ thuốc bắc, đường Hải Thượng Lãn Ông Chơ Lớn lúc nào cũng sẵn, muốn mua cả tạ cũng có ). Nếu không có điều kiện mua Địa Long thì đào trùn tươi (loại màu sẫm rất dai, đào trúng nó, nó không giãy co lại thành 1 núi tròn). 50 con cho liều người lớn hoặc từ 15-16 tuổi trở lên. 30 con cho trẻ từ 5-6 tuổi đến 13-14 tuổi. 20 con cho trẻ từ 1-2 tháng tuổi đến 5-6 tuổi.
2/ Đậu đen, đậu xanh mỗi thứ 100g (sách cổ ghi: 1 bụm to).
3/ Rau bù ngot bằng 2-3 mớ bán ở chợ, khoảng 200-300g, băm nhỏ cả cọng và lá.
Trùn rọc ra, rửa sạch sao thơm giòn, giã nhỏ. Đậu và rau sao thơm, tất cả cho vào siêu hoặc nồi đất hay nồi nhôm gang đều được. Cho vào 4 chén nước, sắc còn 1/2 hoặc 1/3 chén cho người bất tỉnh, phải cạy răng đổ. Thuốc nầy uống 1 thang cũng thấy hết bệnh, nhưng tôi thường cho uống 3 thang trong 3 ngày (tối nước nhất, sáng nước nhì). Hai thang sau để trừ căn và triệt các di chứng (như tai biến mạch máu não có thể di chứng câm, què quặt tay chân, hư mặt, tai ... sốt xuất huyết dễ hư tim, óc ... ) cho nên khi uống thang thứ 2, thứ 3, bệnh nhân đã tỉnh táo. Thuốc có thể pha đường cho dễ uống. Bù ngót sao thật khô giòn, thuốc sẽ có vị thuốc bắc. Bù ngót để tươi sắc không sao, nước thuốc giống chè đậu đen pha đường uống rất ngon.
Thuốc nầy bệnh càng nặng càng thấy rõ hiệu quả 65 phút. Bệnh nhẹ ít thấy rõ kết quả 65 phút, nhưng bệnh vẫn lui. Ở Đại Hàn (Nam Triều Tiên) là xứ sở nhân sâm Caoly, mà người ta còn tẩm bổ bằng cháo trùn. Ở nước ta các dân tộc miền núi phía Bắc trị bụng báng trướng nước bằng cách : trùn băm nhỏ để tươi, trộn với sữa, cứ để thế múc nuốt. Triều Tiên thì cháo trùn là món ăn ngon (đặc sản) chứ không chỉ là món thuốc vừa tẩm bổ vừa trị bá bệnh. Trùn băm nhuyễn, xào thơm, nấu với đậu. Vì quý chất bổ và chất trị bá bệnh của con trùn nên người ta đâu có gớm nó. Huống hồ khi cần trị bệnh nan y hoặc giành giật mạng sống từ tay thần chết, thì có gì mà gớm? Mong rằng đồng bào và các cơ sở y tế hãy mạnh dạn dùng nó trong các bệnh siêu vi trùng, kể cả sida.
Nhân đây tôi xin nói rõ thêm hội nghị tổng kết chống bệnh sốt xuất huyết đợt 1 họp năm 1970. Thông tin nầy được đưa ra toàn thế giới. Nước Nhật nghiên cứu, ứng dụng điều trị. Đến năm 1972, đọc trên tạp chí Đông y của Việt Nam (in bằng khổ quyển Kiến thức ngày nay) tôi thấy có dịch và in lại những bài trong tạp chí Đông y Nhật Bản. Họ hết lời ca ngợi "bài thuốc con trùn của Việt Nam", dùng trị siêu vi trùng rất có hiệu quả. Có lẽ do công bố đó của Nhật mà sanh ra món cháo trùn ở Đại Hàn chăng? Tôi còn nghe một người từ Mỹ về nói bên đó người ta làm thuốc bằng trùn và đậu đen. Điều đó không rõ thực hư thế nào. Nhưng điều chắc chắn là Liên hiệp quốc, trong mấy năm trước đây, có chủ trương: "Tìm về cội nguồn các dân tộc kém phát triển, để học cách trị bệnh bằng cỏ cây và côn trùng". Do đó, ta thường thấy trên tivi và báo chí các cách trị bệnh kỳ lạ của dân da đen, da đỏ.
Càng nghĩ tới các điều đó, tôi càng thấy đau lòng, nhớ lại đề nghị của bác Ba Hưởng muốn tôi bào chế toa thuốc thành thuốc tiêm. Đúng là "không sao kéo lùi lại thời gian đã qua". Nhưng việc bào chế thuốc đó thành thuốc chai (để thêm acid benzoide bột) hoặc chưng cất nó như cất rượu, dù có trễ gần 30 năm, nhưng lúc nào bắt đầu, nó vẫn là việc mới, việc hết sức cần thiết.
Tôi tuy tuổi đã cao nhưng vẫn còn muốn đóng góp. Các cơ sở nghiên cứu, bệnh viện hoặc bệnh nhân cần tôi, tôi vẫn sẵn sàng phục vụ. Ngoài toa "Thần dược cứu mệnh", tôi còn trong tay nhiều bài thuốc quý khác. Ví dụ: bó xương gãy, kể cả xương sống dập nát và xương đòn gánh gãy lìa, chỉ cần thời gian 15 ngày. Bản thân tôi bị dập nát 2 đốt xương sống, quân y Quân khu 9 bó tay, báo tử về đơn vị, nhưng tôi nay vẫn sống mà không tật nguyền, vẫn tập tạ 50kg và đánh quần vợt khi tôi trên 40 tuổi, đang ở nước ngoài có độ lạnh âm 20 độ. Lúc trị lành 2 đốt xương sống không có kẹp nẹp bó bột gì hết. Chỉ nằm sấp dội thuốc nóng vào lưng suốt 15 ngày đêm. Sang ngày thứ 16 tôi ngồi dậy và đi ra đồng cả trăm mét. Nếu tôi có dịp, tôi sẽ lần lượt giới thiệu nhiều bài thuốc quý trên báo để phục vụ bạn đọc.
Dưới đây, tôi cũng xin ghi rõ địa chỉ và số điện thoại của mình, để bạn đọc tiện liên hệ trao đổi thêm về nội dung bài viết. NGUYỄN AN ĐỊNH, (40/10 Hậu Lân-Bà Điểm-Hóc Môn-TPHCM) - ĐT 8914379.
-----------------------oOo----------------------------
NÓI RÕ VỀ CÔNG HIỆU CỦA BÀI THẦN DƯỢC CỨU MỆNH
Để đồng bào cùng các vị lương y, các đồng chí phụ trách bệnh xá bệnh viện ở xã và huyện có thể mạnh dạn dùng bài thuốc nam “Địa Long” có tên thần dược. tôi xin thống kê thành bản rõ ràng, công hiệu của nó đối với các bệnh thường gặp, đồng thời ghi rõ các phần biểu hiện của bệnh (chuyên môn gọi là hiện tượng lâm sàng) và những lắc léo trong phương pháp điều trị.
Công hiệu của bài thuốc như sau:
1/ SỐT XUẤT HUYẾT: (Siêu vi thử máu biết ngay)
Hiện tượng hôn mê kéo dài
Xuất huyết dưới da, nổi vệt đỏ tím xanh đen khắp người
Xuất huyết nội tạng, tiêu phân đen, tiểu máu tươi kéo dài, tiểu ra máu, xuất huyết miệng mũi, mắt, tai.
2/ BỆNH SIÊU VI: Viêm gan siêu vi, viêm não siêu vi, phù thận, phù tim. Có thể hết bệnh khá nhanh, kể cả phù toàn thân.
3/ TAI BIẾN MẠCH MÁU NÃO: Không quá 5 ngày, theo sách cổ nói Nam 7 ngày, Nữ 9 ngày, nhưng tôi thấy quá 5 ngày có thể lưu di chứng liệt. Tốt nhất trong vòng 3 ngày trị ngay sẽ khỏi di chứng. Nếu để lâu nhiều tháng nhiều năm, trị di chứng bằng thời gian đã trị bệnh, có khi lâu hơn.
4/ PHONG XÙ: 1 – 3 thang dứt bệnh cho cả đời.
5/ TIỂU ĐƯỜNG: Mười thang có thể hạ lượng đường đến mức cho phép.
6/ HUYẾT ÁP THẤP: Uống xong tăng huyết áp thấy rõ từng ngày.
7/ HUYẾT ÁP CAO: 2 – 3 ngày đầu tăng lên, cộng độ 20 số, 150 lên 170. Ngày thứ 3 – 4 hạ dần đến ổn định, cho nên người huyết áp cỡ 190 trở lên không nên dùng thuốc nầy. Khi huyết áp hạ nên theo dõi, đừng để hạ quá thấp (nếu thấy chóng mặt thì dừng)
8/ UNG THƯ MÁU: Vài thang có thể hết bệnh
9/ CÙI (PHONG ĐƠN): Uống dài hạn có thể da đẹp trở lại, hết sần sùi.
10/ UNG THƯ CÁC DẠNG: (K)
Khi bệnh viện đã chê (kể chắc là chết) nên dùng để cứu. Đã cứu nhiều trường hợp (K dạ dày, K gan thận, K lưỡi, K xương…). Hy vọng cứu sống 5 – 60%
Và dạng ung thư mới phát và lành tính, có thể hy vọng cứu 6 – 70%
Ung thư giai đoạn 2, 3, 4 không dám bảo trị được.
11/ TĂNG CƯỜNG SINH LỰC: Cho trẻ còi xương, suy dinh dưỡng, người già suy nhược cơ thể, người bệnh mới hết, người sinh và cho con bú, người thiếu máu (cả chất và lượng), trung niên suy yếu.
12/ CÁC CHÁU CÒI 1, 2, NĂM CHƯA NGỒI ĐƯỢC, ĐẦN ĐỘN: Có thể giúp cháu ngồi.
13/ KHÔNG TRỊ ĐƯỢC: Các bệnh phong tình, nấm ngoài da, xoang, gai cột sống, mắt cườm.
BÀI THỨ 5:
“HẬU KỲ THẦN DƯỢC CỨU MỆNH”
Từ hôm bài “Thần dược cứu mệnh” được đăng 4 kì cho đến nay đã hơn tháng, ngày nào tôi cũng nhận được cả chục lần lượt điện thoại, từ các xã, huyện ở Long An, từ các quận 4,5,6,8,10,11,12 cả từ Nghệ An, Thái Bình ở Miền Bắc gọi tới: phần lớn nói đã dùng thuốc và nói đến trong bài báo, hỏi có nên dùng không? Tôi khuyên nên dùng thử. Ít ngày sau nhận được điện thoại họ gọi tới bảo bệnh giảm đáng kể hoặc hết hẳn. Như các bệnh tiểu đường dùng 3 thang giảm hơn 50%, dùng tiếp 3 thang, thử bằng que giấy thấy không lên màu nữa (ví dụ: ông Mười Trâm, 12D đường Lữ Gia, Tân Bình. Nhiều ca bệnh huyết áp cao, huyết áp thấp, uống 4 – 5 thang thì huyết áp đều trở lại bình thường. Một độc giả bảo chú của ông hồi nhỏ bị phong xù (động kinh) nhờ ông nội nhai trùn nhổ cho uống 1 lần mà dứt hẳn bệnh mấy chục năm nay, nên ông khẳng định bài thuốc này có thể trị dứt bệnh phong xù. Ông Đức – tiệm đồ gỗ Đức Phát (đối diện Bưu điện Q.5, điện thoại số 8558887) bị viêm gan siêu vi chỉ số 155 uống 3 thang thử lại còn 11, uống 3 thang nữa thử lại bệnh đã khỏi. Từ nhiều năm qua ông Đức đau gan mà mãi không hết, uống 6 thang dứt bệnh.
Ông Phạm Minh Lộ nguyên Giám đốc Sở thương binh – xã hội Long An, hiện ở số 9 Khu Hậu Cần. phường Thới An. Quận 12 (Hóc Môn cũ) điện thoại 8912448, bị cao huyết áp từ nhiều năm. Ông đã dùng đủ cách thuốc tây, thuốc bắc không khỏi. Vừa qua ông bị tai biến mạch máu não, đang tắm ngất xỉu phải cấp cứu. Khi ông tỉnh lại cảm, nằm im không ngồi dậy được, không tiêu tiểu suốt 10 ngày, bệnh viện bảo di chứng mạch máu não khó mà trị được. Thấy báo đăng bài thuốc hay, con gái ông cho ông uống 5 thang, ông nói được tuy còn ngọng nghịu ngồi dậy được uống thêm 5 thang nữa, nói được rõ và to, tự ngồi dậy đi tập dưỡng sinh múa gậy được mà bịnh huyết áp cao cũng biến mất. Bài thuốc đồng thời giúp ông Lộ trị dứt hai căn bịnh rất khó trị là vừa tai biến mạch máu não, vừa huyết áp cao. Đặc biệt có ông Nguyễn Văn Bé, Phó Giám đốc Công ty Dược liệu 2 Trung ương, kiêm Giám đốc Cơ sở trồng cây thuốc 2000 ha, chuyên chiết xuất thuốc từ thảo mộc và sản xuất thuốc tây (điện thoại 84.8.8323007 – 84.8.832.3009). Khi đọc xong bài báo, ông liên hệ ngay với tôi, sau đó tìm đến tận nhà, cùng đi với một tiến sĩ dược – Quốc tịch Pháp. Vừa bước xuống máy bay, ông bạn cùng ông Bé đến nhà tôi trong cơn mưa. Ông Bé nói:
- Tôi là người hiểu rõ tác dụng của con trùn đất. Năm 1964 tôi vào Nam chiến đấu bị thương vào đầu. Sau khi lành vết thương, tôi bị mất trí nhớ và trí thông minh nghiêm trọng. Tôi phải uống con Địa Long liên tục rất nhiều năm. Trí nhớ và trí thông minh của tôi được phục hồi, và tôi trở thành một nhà khoa học, vừa quản lý cả Công ty Dược miền Nam, vừa quản lý một cơ sở trồng thuốc và sản xuất thuốc khá lớn, có qui mô 2000 ha đất với xưởng có nhiều máy móc hiện đại, có những chuyên gia Anh, Pháp cùng làm việc. Tôi muốn mời bác Định đến làm việc với chúng tôi, tôi tin rằng với thời gian không lâu, chúng ta sẽ thu gom bài thuốc của bác Định chỉ bằng 2 viên nang con nhộng thôi. Về thể tích thì thu gọn nhỏ nhất, nhưng về chất lượng khả năng trị bịnh, ta vẫn giữ nguyên một thang có đầy đủ 4 vị vớ I gr địa long. Với hệ thống máy móc hiện đại, chúng ta sẽ làm được điều đó. Trong thời gian tới dù bác Định có đủ sức khỏe để cùng làm việc với các cháu, hay bác không tiện làm việc, mà chỉ có mình chúng cháu làm, chúng cháu cũng coi đó là bài thuốc của bác. Vì nó khác với cháu đã dùng nhiều năm nay và cháu đã chế biến nó thành 2 con nhộng.
Tôi xin nhờ báo Long An đăng thư nầy thông báo các mẩu tin ngắn trên đây để bà con tin tưởng ở bài thuốc hơn mà tích cực dùng nó để trị bịnh cứu người. Đồng thời cũng có thể vui mừng vì sắp tới đây “Thần dược cứu mệnh” sẽ thành viên nang con nhộng, có mặt trong nhà thuốc Tây để bà con ta tiện dùng vì mỗi lần chỉ uống có 2 con nhộng. Người bất tỉnh phải cậy răng đổ thuốc. Thì chỉ cần một muỗng cà phê nước, trút bột trong 2 con nhộng đó ra, hòa đều rồi đổ, rất tiện lợi.
Xin cảm ơn trước dược sĩ Nguyễn Văn Bé cùng Công ty Dược liệu trung ương 2 và Cơ Sở Y Dược của ông. Chúc chúng ta thành công trong việc biến “Thần Dược Cứu Mệnh” thành viên nang nhỏ để đưa rộng rãi cho mọi người đều dùng thuốc dễ dàng.
Ngày 10 tháng 6 năm 1997
NGUYỄN AN ĐỊNH 40/10 Hậu Lân – Bà Đoàn Thị Điểm- Hóc Môn – TP. Hồ Chí Minh.
Tel: 8914379
「huyệt đại hoành」的推薦目錄:
huyệt đại hoành 在 Facebook 的最佳貼文
“Mục tiêu của Thiền trong đạo Phật là chứng đạt Vô ngã, chấm dứt Vô minh, Giải thoát Giác ngộ, thành tựu Tam minh Lục thông.
- Muốn đạt được mục tiêu này thì phải đi hết con đường Chánh định gồm từ Sơ thiền đến Tứ thiền. Vào được chánh định từ Sơ thiền thì gọi là Nhập định.
- Muốn Nhập định được thì phải trải qua một thời gian dài không còn vọng tưởng. Thời gian an trú chỗ không vọng tưởng đó thì tùy căn cơ mỗi người. Có người an trú trong bảy ngày thì nhập định sơ thiền luôn. Có người an trú 30 năm mới nhập định được.
- Muốn hết vọng tưởng thì phải an trú được trong Chánh niệm Tỉnh giác rất lâu. Bước được vào trạng thái Chánh niệm Tỉnh giác thường xuyên đã là rất khó, phải có phước duyên lớn. Nhiều người hay gọi giai đoạn này là Ngộ đạo Kiến tánh, vì kiến giải lý lẽ tuôn trào vô tận. Có Chánh niệm Tỉnh giác rồi thì vọng tưởng bị kiểm soát chặt chẽ, khởi lên là bị biết nên không tung hoành quậy phá lôi kéo hành giả tạo nghiệp nữa.
- Muốn bước vào Chánh niệm Tỉnh giác thì phải dụng công đúng phương pháp rất lâu (cũng rất lâu nữa). Đồng thời hành giả phải đã có rất nhiều Công đức, nội tâm đã thuần thục Đạo đức.
Đạo đức là công phu tu dưỡng khá nhiều kiếp mới tạm có. Công đức thì cũng cần phải được tích lũy lâu dài chẳng kém. Đạo đức là cả một kho tàng trí tuệ và lý luận. Công đức là cả một đại dương công lao vất vả hy sinh phụng sự.
Phương pháp sai thì, chỉ cần sai một ly đã đi mất mười dặm rồi. Cách Phật đã xa, ta rất khó có được phương pháp đúng. Ngay cả khi một thiền sư có chứng ngộ gì đó rồi đem ra dạy, vẫn chưa chắc là đúng phương pháp. Vì sao? Bởi vì vị thiền sư đó sẽ dạy theo kinh nghiệm của riêng mình, dạy theo căn cơ của cá nhân mình, nhiều khi ngồi giảng thao thao chỉ là khoe khoang cảnh giới nội tâm chứng đạt của mình. Hội chúng ngồi nghe thấy hay mà chẳng biết làm sao thực hành.
Bây giờ ta là nói lộ trình theo chiều thuận thứ tự từ thấp đến cao như sau:
- Đầu tiên là phải phát tâm tu hành hướng về mục tiêu Giác ngộ Giải thoát, hết Vô minh, dứt Bản ngã. Muốn có sự phát tâm vô thượng bồ đề này, nghĩa là có lý tưởng Giác ngộ này, thì thông thường ta phải đã có duyên gặp gỡ, tôn kính, ca ngợi, cúng dường một bậc Thánh siêu phàm nào đó trong quá khứ. Chính vì nhìn thấy sự siêu phàm của vị đó mà ta quá sức ngưỡng mộ, rồi biến thành ước mơ tu hành cho chính mình trong tương lai.
- Khi có lý tưởng tu hành Giác ngộ rồi, ta sẽ phải vừa tu dưỡng đạo đức, vừa gây tạo công đức dần dần. Giai đoạn này rất khó khăn khổ sở vì tập khí xấu quá khứ sẽ cản trở mãi. Ta muốn hiền lành mà nghịch cảnh chọc cho ta sân. Ta muốn thanh tịnh mà người yêu cũ đến mời gọi... Rồi ta muốn làm phúc mà thiếu thốn rắc rối đủ thứ. Nhưng nếu ta cố gắng mãi thì sự tu dưỡng đạo đức và gây tạo công đức sẽ thuận lợi dần sau vài mươi kiếp (hì...)
- Khi đã có đạo đức và công đức phần nào rồi thì ta sẽ bước vào tu tập thiền định, tìm kỹ thuật phương pháp dụng công cho chuẩn xác. Muốn tìm được kỹ thuật thiền định chuẩn mực thì đành phải lễ Phật mà xin gia hộ, chứ quả thật ta chẳng biết ai dạy đúng mà đến cầu học. Đa phần ta có duyên với vị nào thì sẽ đi theo vị đó, nhưng cái vị mà ta có duyên cũng chưa chắc dạy đúng.
Ta phải tham khảo với phương pháp quán niệm hơi thở mà Phật dạy trong kinh điển Nikaya, vì đó là tạng kinh khá đúng với lời dạy của Phật thời tại thế nhất.
- Sau một thời gian dài dụng công đúng phương pháp, cộng với sự hỗ trợ ngầm của Đạo đức và Công đức, ta sẽ xuất hiện ''một ít'' trạng thái Tỉnh giác. Một ít thôi, vì chưa đốn ngộ để lọt hẳn vào nội tâm Chánh niệm Tỉnh giác. Tuy nhiên, để có trạng thái Chánh niệm Tỉnh giác ngày càng mạnh thì ta buộc phải có nội lực khí công. Ta sẽ nói sau.
- Sau một thời gian dài cố gắng tu tập ''đúng phương pháp'' (3 tháng hoặc 30 kiếp), ta sẽ lọt hẳn vào trạng thái nội tâm tràn đầy Chánh niệm Tỉnh giác - ta hay gọi là ngộ đạo.
Rồi sau một thời gian dài (3 tháng hoặc 30 kiếp) cố gắng tu tập với nội tâm tràn đầy Chánh niệm Tỉnh giác đó, ta sẽ đạt được một nội tâm vắng lặng hoàn toàn không còn vọng tưởng.
- Rồi sau một thời gian dài (3 tháng hoặc 30 kiếp) an trú nội tâm vắng lặng không vọng tưởng đó, ta sẽ nhập được Sơ thiền, gọi là giai đoạn Nhập định.
Nhập định cho qua hết bốn mức thiền, không biết bao lâu, ta sẽ chứng Tam minh để thành tựu mục tiêu Giác ngộ Giải thoát tối hậu cao siêu.
Cái khó vẫn là dụng công thiền định cho đúng phương pháp. May mắn cho ta là Phật dạy hơi thở, biết hơi thở vào, biết hơi thở ra. Hơi thở được tu tập đúng sẽ đem đến cho ta cả hai thứ, một là Tỉnh giác, và hai là Nội lực.
Hít vào thở ra thì không cần dạy cũng phải làm nếu muốn sống. Nhưng hít vào thở ra với ý thức biết rõ, và thở cho khéo để có được một hơi thở trơn êm mới là khó. Hoặc là ta thở mà không biết mình đang thở. Hoặc là ta biết mình thở nhưng hơi thở đó bị thô, bị vướng, bị rít, bị mạnh, vì bị điều khiển thô bạo.
Hơi thở đúng là hơi thở trơn êm. Không cần biết dài hay ngắn, miễn trơn êm là được. Hơi thở trơn êm là loại hơi thở dường như ít bị điều khiển thô bạo, không cố gắng hít cho nhiều. Lúc đó ta sẽ thông minh cho phép hơi thở vào bao nhiêu là vừa chạm ngưỡng cuối cùng của sự trơn êm đó, vì nếu hít thêm chút nữa sẽ mất sự trơn êm.
Khi thở ra phải khéo giữ cho trơn êm đều nhẹ chứ không vội vã thở nhanh ra cho rồi. Ai có tập Âm Dương khí công sẽ có bản lĩnh giữ hơi thở ra êm nhẹ dài chứ không vội vã.
Ngoài ra ta phải khéo tác ý quán thân vô thường, phải biết rõ toàn thân để không cho tâm cứ để trên đầu đưa lực lên đầu làm hư bộ não. Tâm phải biết toàn thân, phải hiểu sâu sắc thân này là vô thường. Tâm luôn biết rõ toàn thân, bám chặt vào thân, không rời khỏi thân để hướng ra ngoài.
Trong cái biết toàn thân đó, tâm sẽ không bỏ qua phần đáy bụng dưới, nơi có các huyệt đạo quan trọng của cơ thể.
- Hơi thở trơn êm thì lập tức tạo ra sự tỉnh giác nội tâm liền. Nhưng chính cái lúc Dừng giữ hơi thở lại sẽ tạo ra Nội lực.
Hơi thở dừng giữ lại (chứ không phải nín thở) trong khi biết toàn thân sẽ tạo ra cảm giác căng phồng ở bụng và ngực. Đó là tiền đề của Nội lực.
Cả sự Tỉnh giác và Nội lực hợp lại sẽ khiến cho sức Tỉnh giác càng lúc càng sáng càng mạnh. Nếu ai có Tỉnh giác mà không khéo thở thì từ từ mất Nội lực và sức Tỉnh giác cũng mất theo. Nội lực và Tỉnh giác hỗ trợ cho nhau. Hơi thở trơn êm tạo ra sức Tỉnh giác. Hơi thở có dừng giữ sẽ tạo ra Nội lực.
Phật và nhiều vị A la hán không nói đến Nội lực vì các ngài đã thành tựu Nội lực từ khi còn bé. Bây giờ chỉ tập trung thiền định Tỉnh giác rồi nhập định luôn. Còn chúng ta chưa có nội lực nên phải thở làm sao vừa tạo ra Tỉnh giác vừa tạo ra Nội lực.
Hơi thở trơn êm và có dừng giữ sẽ cho ta cả hai điều đó.
- Ta không cố gắng dừng giữ hơi thở cho lâu, nhưng tự nhiên hơi thở sẽ dừng lâu dần và có một ít hơi cứ tiếp tục đi vào giữ cho căng phồng toàn thân. Ta sẽ nhận ra khi dụng công đúng như thế.
Khi sức Tỉnh giác và Nội lực sung mãn thì ta kiểm soát vọng tưởng càng lúc càng dễ, cho đến lúc không còn vọng tưởng nữa.
An trú nội tâm không vọng tưởng lâu dài cho đến khi chín mùi thì ta sẽ bất ngờ Nhập định. Nhập định rồi thì ta sẽ bị tâm lý chủ quan, sẽ ít lễ Phật, ít chịu khó giúp đời làm phước, nên phước bị hao dần mà không đủ để tiến đến vô hạn. Hành giả phải cảnh giác tâm lý này, phải chịu cực làm phước, vẫn phải siêng lễ Phật để tích lũy phúc lành đến vô tận, dù có nhập định được rồi.”
• Nguồn : THIỀN TÔN PHẬT QUANG
• Cre: Tâm lý Đạo đức_Nhân quả luân hồi
huyệt đại hoành 在 Phạm Dương Ngọc Vlog Facebook 的最佳貼文
Xót xa lăng mộ vua Trần Anh Tông chìm dưới lòng hồ - Phần 11
Con đập Trại Lốc và sự vô tình của con người đã nhấn chìm luôn những bí ẩn thú vị về cuộc đời và cái chết của một vị vua oai hùng trong lịch sử Đại Việt.
———-xxx————-
Đứng trên đập Trại Lốc, ông Nguyễn Hữu Tâm chỉ tay ra bốn hướng, mô tả dãy núi trùng điệp bao quanh hồ Trại Lốc rộng mênh mông. Xưa kia, giữa dãy núi trùng điệp ấy, có một thung lũng hữu tình, với con suối uốn lượn chảy qua. Giữa thung lũng, cạnh con suối, nổi lên một quả đồi nhỏ có tên là đồi Trán Quỷ. Trên ngọn quả đồi Trán Quỷ, có lăng mộ vua Trần Anh Tông, chìm trong cây cối, hoa trái.
Xưa kia, đồi Trán Quỷ là nơi các bậc đế vương thường xuyên lui đến hành lễ chiêm bái trước lăng mộ vua. Từ Thái Miếu, các bậc đế vương sẽ đi ra Mục Lăng (Trần Minh Tông), rồi tiếp tục đi dọc con suối Lốc lên đồi Trán Quỷ.
Ông Nguyễn Hữu Tâm mô tả thế này: 700 năm trước, vùng An Sinh là nơi uy nghi tráng lệ, nơi các Thái thượng hoàng nhà Trần tu ẩn, nơi các bậc đế vương đi về, nơi tiếng chuông tiếng mõ vang vọng. Trải hàng trăm năm thịnh trị, nhà Lê soán ngôi, lăng tẩm vua Trần không còn được chăm chút cẩn thận nữa. Những lăng mộ chìm vào rừng già, bị lãng quên, bị trộm cắp, bị thiên nhiên khắc nghiệt tàn phá đến đổ nát.
Thập kỷ 40-50 của thế kỷ trước, vùng An Sinh, kéo dài đến tận Chí Linh (Hải Dương) toàn là rừng già, với những thân gỗ lim, nghiến to vài người ôm. Hổ thường xuyên về làng bắt trâu, bò, lợn, gà, thậm chí cả người.
Rồi người dân tứ xứ tiến dần lên núi phát rừng làm ruộng, lập làng an cư. Lúc này, những lăng mộ bị lãng quên mấy trăm năm bỗng lộ ra. Con người lại tiếp tục tàn phá. Người ta thi nhau cuốc đất, moi đá tìm của báu, đồ cổ. Đỉnh điểm của sự tàn phá, phá một cách toàn diện, là người ta làm một con đập, dìm luôn cả lăng mộ khổng lồ xuống lòng hồ Trại Lốc.
Tôi đã có tổng cộng 3 lần tìm về An Sinh để được ra doi đất nổi lập lờ giữa hồ Trại Lốc, từng là đỉnh quả đồi Trán Quỷ. Hai lần về An Sinh, thì cả hai lần mưa lớn, nước từ toàn bộ sườn Tây Yên tử đổ ra con suối, tống về hồ, khiến nước dâng tới đập tràn. Khi nước hồ Trại Lốc lên đến đập tràn, thì toàn bộ ngọn đồi Trán Quỷ khi xưa, tức doi đất mộ vua bây giờ sẽ chìm dưới lòng hồ. Duy nhất ngọn cây lạ còn lơ phơ cành lá, cùng với bát hương còn nổi lên khỏi mặt nước chừng gang tay.
Anh Nguyễn Văn Thắng, người trông coi đập Trại Lốc và thầu hồ Trại Lốc lấy thuyền chở tôi ra doi đất nổi lên giữa hồ để viếng mộ vua Trần Anh Tông. Anh Thắng bảo: “Trước đây, mỗi lần mưa lớn, nước hồ dâng lên, là phế tích lăng mộ vua Trần biến mất dưới lòng hồ. Nhìn cảnh ấy xót quá, nên dân làng nhặt những viên gạch ở phế tích xây thành cái am nhỏ xíu, cao chừng hơn mét rồi đặt bát hương lên. Vị trí đặt bát hương cao hơn mặt tràn của đập Trại Lốc, nên dù mưa lớn, nước về ngập hồ, thì bát hương vẫn trồi lên khỏi mặt nước”.
Anh Thắng vẫn nhớ như in cảnh người ta tàn phá lăng mộ vua Trần Anh Tông: “Trước đây, quanh thung lũng trông như vườn cây của vua ấy, nhiều loại cây ăn quả cổ thụ lắm. Có thể 700 năm trước, lòng hồ Trại Lốc là vườn thượng uyển của vua, với đủ các loại cây ăn quả. Cây già chết đi, cây giống mọc lên nên vẫn còn đến tận những năm 70 của thế kỷ trước. Dưới lòng hồ còn có cả một vườn liễu khổng lồ, với những gốc liễu một người ôm không xuể. Nhưng hồi đắp đập họ chặt hết cây cối lấy gỗ đóng vào chân đập. Bao nhiêu tượng đá, bụt đá, voi ngựa, chân cột, cả chiếc bàn đá rất lớn, cùng lối đi là những bậc đá từ phía lăng Trần Minh Tông lên đồi Trán Quỷ dài mấy trăm mét cũng bị ủi vào phía chân đập. Người ta moi hết cả sườn đồi Trán Quỷ để lấy đất, còn lại mỗi ngọn đồi chon hỏn với phế tích lăng mộ này thôi”.
Con thuyền nhỏ lướt sóng cập bờ. Trên doi đất chỉ toàn cây xấu hổ với gai móc sắc nhọn. Vẫn còn những lối lên lăng với bậc đá, với sấu chầu hai bên. Tuy nhiên, các tảng đá, các bậc đá, bia đá, sấu đá, rồng đá, tượng đá đều gãy làm nhiều mảnh, vỡ nham nhở.
Tôi cứ lăn tăn tự hỏi, chẳng lẽ mây mưa nắng gió lại làm vỡ được những tảng đá cứng như… đá này? Chẳng lẽ, người đời lại tự dưng ngứa tay đập vỡ nó ra? Anh Thắng bảo: “Toàn là do dân tìm vàng bạc châu báu phá hoại đấy. Họ đào mộ tìm vàng, rồi đập tượng đá, rồng đá, sấu đá, bia đá để xem có vàng bạc bên trong không. Toàn bọn phá hoại, làm gì có ai giấu vàng bạc trong đá cơ chứ!”.
Nhìn cảnh mọi thứ đổ vỡ, anh Thắng và một số người dân xót xa lắm. Họ bàn nhau trộn ximăng, rồi gắn những mảnh vỡ lại, nhưng việc làm của họ không chuyên nghiệp, nên vết gắn cứ lôm nha lôm nhôm. Dù sao, hành động bảo vệ di tích đó cũng rất đáng quý rồi.
Việc trông coi phế tích lăng mộ Trần Anh Tông hình như không phải việc của Nhà nước, của chính quyền, mà lại là việc của anh chàng trông nom hồ cá. Dù hàng năm cả chục lần lăng mộ bị nhấn chìm trong nước, song phần lớn thời gian, hàng ngàn cổ vật lồ lộ giữa thanh thiên bạch nhật. Những tay trộm đồ cổ, những nhà sưu tầm cổ vật nhìn những bia đá, tượng đá, sấu đá, rồng đá có tuổi 700 năm mà thèm thuồng, muốn bê đi liền. Nhưng những tay trộm đồ cổ khó có thể tơ hào, vì đêm nào anh Thắng cũng ngủ trong căn nhà hoang ở doi đất giữa hồ liền kề với đồi Trán Quỷ để vừa trông hồ cá vừa trông nom ngôi mộ.
Lăng mộ vua Trần Anh Tông đã được khai quật 2 lần vào năm 2007 và 2008, làm phát lộ nhiều thông tin quý giá. Người dân An Sinh nghĩ rằng, sau khi khai quật, lăng mộ sẽ được trùng tu hoành tráng, để người dân có chỗ hương khói, vua Trần đỡ tủi. Tuy nhiên, mấy năm qua rồi, lăng mộ vẫn nằm đó, với những gạch ngói, tượng đá, bậc đá bày cả đống trên ngọn đồi Trán Quỷ.
Cuộc khai quật của Viện Khảo cổ học Việt Nam cho thấy đây là một lăng mộ cực kỳ hoành tráng, nằm theo chiều Bắc – Nam, có cấu trúc 3 cấp nền, hình chữ nhật, nằm chồng xếp và lồng vào nhau. Cấp nền thứ nhất rộng gần 93 mét vuông, cấp nền thứ 2 rộng tới 1.018 mét vuông và cấp nền thứ 3 rộng tới 3.558 mét vuông. Như vậy, toàn bộ trung tâm lăng mộ rộng tới hơn 4.469 mét vuông, tức gần nửa héc-ta. Cùng với đó là hàng loạt các công trình quy mô lớn xung quanh lăng mộ.
Điều đáng chú ý, trong cuộc khai quật, các nhà khoa học đã tìm được số lượng khổng lồ đồ gốm sinh hoạt, gồm gốm men và đồ sành. Những di vật này đã gợi mở về những nghi lễ liên quan đến các lần ngự giá của các vua nhà Trần khi đến yết bái lăng mộ. Đáng lưu ý là những đồ gốm này chủ yếu của Việt Nam và chỉ có một lượng nhỏ gốm men của Trung Quốc.
Mặc dù cuộc khai quật đã thu được nhiều hiện vật, tư liệu khoa học, song khu di tích này vẫn ẩn chứa nhiều điều bí ẩn. Bí ẩn lớn nhất là tại khu vực trung tâm, các nhà khảo cổ đã cho đào một hố thám sát chính giữa, nhưng không tìm thấy dấu hiệu của huyệt mộ hoặc quan tài. Câu hỏi đặt ra là liệu có quan tài của vua Trần Anh Tông ở lăng mộ này và nếu có thì nó nằm ở vị trí nào?
Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Canh Thân – Đại Khánh năm thứ 7 (1320), mùa xuân, tháng 3, ngày 6, Thượng Hoàng (Trần Anh Tông) băng ở cung Trùng Quang, phủ Thiên Trường, rước linh cữu vào cửa Tường Phù, quàn tại cung Thánh Từ (Thăng Long). Tháng 12, ngày 12 (năm 1320), táng Thượng Hoàng vào Thái Lăng ở Yên Sinh”.
Đại Việt sử ký toàn thư chép tiếp: “Mười hai năm sau, mùa xuân, tháng 2, ngày 15, năm Nhâm Thân (Khai Hựu năm thứ 4 - 1332), phụ táng Thuận Thánh Bảo Từ Hoàng Thái hậu (vợ vua Trần Anh Tông) vào Thái Lăng”.
Đại Việt sử ký toàn thư đã chép rõ như vậy, song 2 cuộc khai quật của các nhà khảo cổ lại chưa phát hiện được dấu tích của phần mộ là quan tài, huyệt mộ. Con đập Trại Lốc và sự vô tình của con người đã nhấn chìm luôn những bí ẩn thú vị về cuộc đời và cái chết của một vị vua oai hùng trong lịch sử Đại Việt.
—————xxx————
Trần Anh Tông tên thật là Trần Thuyên, là vị vua thứ 4 của nhà Trần (sau vua cha Trần Nhân Tông và trước Trần Minh Tông). Ông ở ngôi 21 năm (1293-1314) và làm Thái thượng hoàng 6 năm. Anh Tông là vị vua anh minh, được sự giúp sức của những nhà nho tài đức như Trương Hán Siêu, Đoàn Nhữ Hài, Mạc Đĩnh Chi, Nguyễn Trung Ngạn và những quan võ như Phạm Ngũ Lão, Lê Trung Hiển.
Ông giữ được đạo vua hiền, tôi trung, phép tắc nghiêm trang, thưởng phạt phân minh, chính trị không có điều gì hồ đồ. Việc học hành được mở mang rộng rãi, thu nạp được nhiều người tài. Chính vì thế, thời kỳ ông trị vì là giai đoạn thịnh trị của nhà Trần.
Vua Anh Tông hay vẽ tranh và làm thơ. Tuy nhiên, ngày nay chỉ tìm thấy 12 bài thơ của ông trong “Việt âm thi tập”. Có bài được ông sáng tác trên đường đi chinh chiến, có bài nói về lịch sử, đạo Thiền. Ông là tác giả của những bài thơ tả cảnh như "Vân tiêu am", "Đông Sơn tự". Ông có làm một tập thơ “Thủy vân tùy bút”, nhưng đến lúc sắp mất đem đốt đi, không cho để lại.
Sử chép rằng, năm 1320, khi Anh Tông đau nặng, hoàng hậu cho đi gọi thầy tăng về để làm lễ xem sự sinh tử, Anh Tông gạt đi mà bảo rằng: "Thầy tăng đã chết đâu mà biết được sự chết". Sau đó ông qua đời, hưởng thọ 47 tuổi.
Còn tiếp....
Phạm Ngọc Dương
(Video trích đoạn từ phim Nhà báo Phạm Ngọc Dương - Bước chân khám phá. Đoạn phim quay cảnh làm việc bên mộ vua Trần Anh Tông)
huyệt đại hoành 在 5 cách bấm huyệt đẩy lùi cơn nấc hiệu quả - YouTube 的推薦與評價
Nấc cụt xảy ra do cơ hoành co thắt không kiểm soát được. Không ai biết rõ nguồn gốc thật sự của nấc là gì. Nguyên nhân phổ biến nhất được ... ... <看更多>
huyệt đại hoành 在 Trung Quản 9. Huyệt đặc hiệu chữa đau bụng dưới - Facebook 的推薦與評價
81 huyệt đặc hiệu, rất thực dụng Các bạn học Trung y đều biết, toàn bộ cơ thể có 52 đơn huyệt, ... Huyệt đặc hiệu chữa đau bụng dưới—— Đại Hoành ... <看更多>